Sóng Bến Duềnh

( Đời người có ba lần trở về, lần thứ nhất về với dân, lần thứ hai về với mình, lần thứ ba về với đất

(Truyện ngắn của Đức Ban)

- Lời người xưa)

Lần lữa mãi nay tôi mới thực hiện được chuyến đi điền dã thu thập tư liệu làm hồ sơ xếp hạng di tích Nhà thờ Đào Thinh ở làng Yên. Đường vào làng vương vãi rơm rạ và phân bò khô, men theo một vạt lau dài hun hút, hoa trắng rũ rượi. Bên kia bãi lau là sông Duềnh, đâu gần lắm, nghe rõ tiếng sóng thầm thì, thầm thì.

Đền thờ Đào Thinh nằm đầu làng. Lối vào đền lát đá, cách khoảng có một cây mưng già, hoa rủ lòng thòng. Không khí bức bối mà tĩnh lặng. Qua cái tắc môn sứt mẻ, mảnh sân gạch lõm lòng thuyền là một ngôi nhà cũ kỹ, trên mái nặng trĩu những rồng bay, hổ phù. Trong nhà tối lờ nhờ. Dãy giường thờ, hương án nép sát bức tường trắng lợt. Giá ngai, vị hiệu, lư hương, chân đèn, hạc chầu, đến cửa võng, câu đối, im lặng và không biết sao đều màu nâu đất. Qua ô cửa ngách thấy cái nền nhà cũ, nhận ra nhờ hình dáng và những bức tường đổ.

- Ai đó ? – Tiếng hỏi nghe thật âm u phát ra phía hồi nhà.

Tôi quay lại. Một người đàn ông ngồi xếp bằng trên mảnh chiếu trải giữa đất. Khuôn mặt béo rệu, đôi mắt trống vắng hướng ra ngoài sân, đôi môi tái xám mấp máy, một cánh tay xòe ngón áp trước bụng, cánh tay còn lại giấu chỗ nào đó sau lưng...tất cả gây cho tôi một cảm giác sợ hãi.

- Tôi ...là cán bộ bảo tàng tỉnh.- Tôi đáp, giọng tự nhiên run lên.

- À...Ông ta dưng dưng, mắt vẫn hướng ra phía sông Duềnh. Rồi tiếp- Chuyện di tích à ? Thôi. Xưa khác, nay khác.

Tôi hỏi:

- Xưa khác, nay khác là sao ạ ?

Ông cười, tiếng cười nấc nghẹn và nói:

- Là thế. Là nay không như xưa nữa.

Bỗng có cái gì nhói lên trong đầu và ngay đó tôi nhận ra, rất rõ ràng, con người kia là Ông.

...Hôm ấy, đang nằm đọc những hộp diêm chữ về mấy cái chuyện lạ rất khó tin trên tờ báo tỉnh thì giật mình bởi tiếng chuông điện thoại réo. Định không nghe, nhưng nghĩ, biết đâu lại có chuyện gì đó ở quê, ở mấy đứa con xa. Thời buổi nhộn nhạo trộm cắp, đánh đấm, cờ bạc, tai nạn giao thông, ung thư, dịch bệnh...trời cũng không lường hết được mọi sự. Đành nhấc ống nghe. Giọng hắn, nửa bắc, nửa nam. Hắn nói đến nhà hàng Hoàng Tử, hắn đang ngồi với Ông, rất nhiều chuyện hay. Tôi nói sẽ đến. Có chút muốn ở cạnh một người quyền cao, chức trọng và có chút tò mò. Thay áo, quần xong vừa lúc một chiếc ô tô trắng lóa đỗ xịch trước cổng. Anh lái trạc tuổi tôi, mặt lạnh tanh, lầm lì quay vô lăng. Là nhận ra thế, còn thì không xúc động. Cái lạnh tanh của thiên hạ có mới mẻ gì, có hiếm hoi gì. Xe từ từ lăn bánh và nhà hàng Hoàng Tử, đèn xanh, đèn đỏ nhấp nháy. Mấy ô cửa sổ nhòm ra sân chập chờn bóng người. Anh lái xe hì hụi đi trước, tôi im lặng theo sau. Thoắt cái, rơi tõm vào một căn phòng rộng, sáng lờ nhờ và nồng mùi thuốc lá, mùi mỡ, mùi rượu, mùi son phấn... Hắn ôm chầm lấy tôi, phả vào mặt tôi nào là tuyệt vời, nào là tình nghĩa với bè bạn. Rồi quay về phía người đàn ông to, lùn khuôn mặt rung cục những thịt ngồi bên kia bàn, hắn trịnh trọng giới thiệu Ông là một chính khách thời hiện đại. Lại quay về phía tôi nói đây là một tài năng văn hóa, văn chương. Ông đưa tay ra. Một bàn tay có sáu ngón, ươn ướt. Xong cái bắt tay, Ông bảo mọi người ngồi vào bàn. Ba cô gái trẻ măng, mặt bự phấn, váy ngắn, cổ áo trễ nãi từ sau tấm vải hoa căng ngang phòng bước ra. Sau đó là tiếng rượu chảy riu riu, riu riu. Hắn giới thiệu từng người một. Toàn những khuôn mặt giám đốc công ty này, doanh nghiệp nọ. Chỉ tôi và hai cô gái không chức tước. Một cô áo đỏ, khuôn mặt có nét hao hao Ông và một cô áo trắng. Cả hai mặt đẹp như tranh vẽ, cổ cao, ngực ngồn ngộn, mắt nhìn có sức cuốn hút ma muội. Bàn tay sáu ngón của Ông bấm nhoay nhoáy máy điện thoại, hình như là nhắn tin, rồi dúi máy vào tay cô áo đỏ. Xong lại nhoay nhoáy trên cái máy khác, xong đặt máy vào tay cô áo trắng. Cả hai cô gái cùng cười, nụ cười đẹp không tả được. Chợt nhớ có anh nhà báo nói thành phố vừa nảy ra một Hội săn bắt xếp có trên hai chục hội viên chân dài. Bất giác tôi trút một tiếng thở dài. Ông nhướn mắt nhìn, vầng trán hẹp và bóng hằn mấy đường nhăn, rồi chém bàn tay sáu ngón vào không khí lởn vởn khói thuốc, ý bảo mọi người im lặng, mặt thoắt trang nghiêm và nói đã có nghe tên tôi, hôm nay gọi đến để biết mặt nhau. Làm lãnh đạo có một anh nhà văn bên cạnh cũng hay hay. Ông nở một nụ cười dè sẻn rồi nói tiếp ông đang cần đưa cái đền thờ Đào Thinh vào di tích Lịch sử- văn hóa. Đào Thinh là cụ tổ của Ông từng phò vua đánh giặc lập được nhiều công trạng. Hắn nói hậu duệ cụ Thinh là Ông cũng rất xứng với tổ tiên. Một lời tâng bốc rõ da thịt, vậy mà khuôn mặt Ông vẫn nở ra cười vẻ mãn nguyện lắm. Tôi nói, chẳng lẽ lại không nói, rằng tôi sẽ cố gắng. Hắn bảo việc lập hồ sơ xếp hạng di tích nhà thờ Đào Thinh là trách nhiệm và vinh dự của tôi. Xong hồ sơ, có quyết định cấp tiền, các ông giám đốc có mặt hôm nay hù nhau vào mà tu bổ, tôn tạo và nhớ phần trăm, phần nghìn chu đáo. Đám đông nhao nói sẵn sàng. Ông gật gật đầu. Chắc thấy mặt tôi cứ nghệt ra, hắn rỉ tai tôi hãy khôn ngoan sống theo tính cách cư dân trồng lúa nước, nghiêng ngã theo nước sa, gió thổi. Người ta vụ này, vụ nọ, mày công chức nhà nước nhưng khác chi thằng thất nghiệp, phải kiếm lấy một vụ trong đời. Hắn còn nói gì nữa nhưng tôi không nghe rõ vì căn phòng đã nổ tung tiếng hò hét, tiếng vỗ tay, tiếng cốc chén va nhau, tiếng bia, rượu chảy...Hắn thúc cùi tay vào hông tôi nói uống đi. Ừ thì uống. Đây có thua ai. Một, hai, ba...Cô áo đỏ, cô áo trắng, Ông và ai đó nữa nhoèo ra, chập chờn...

- Anh vẫn đứng đấy à ? – Ông hỏi.

Tôi ngồi xuống cạnh Ông, không giấu nổi ngạc nhiên:

- Sao Ông lại ở đây ?

- Ở đây thì sao, hả ?

Tôi nói:

- Thì là tôi tưởng Ông vẫn ở trên tỉnh, không nghĩ Ông đã về làng.

Khuôn mặt Ông cau lại, giọng bực bội lẫn trách móc:

- Cả tỉnh biết, mỗi anh không biết ư ? Anh giả vờ. Thương hại tôi nên giả vờ phải không?

Tôi nói:

- Tôi không biết thật mà.

Ông gật đầu vẻ như đã tin tôi . Rồi nói, giọng đứt ra:

- Tôi bị...Bệnh tật, anh em không nỡ xử tệ, họ cho tôi đi an dưỡng, nhưng tôi tính, tôi phải về đây, ở làng ...

Bỗng Ông im bặt. Một nỗi buồn phủ lên khuôn mặt câm lặng và đôi mắt mở to, đồng tử đùng đục, bất động, nom rõ được nhờ chút ánh sáng trời chiều dọi qua lỗ thủng đầu hồi nhà.

Tôi lặng lẽ đi ra sân, tự nhiên lòng buồn mênh mang.

Dân làng kể:

Họ Đào sinh cơ lập nghiệp ở làng Yên đã lâu đời. Theo tộc phả ghi lại, vị tổ họ Đào nổi tiếng đầu tiên là Đào Thinh làm đến chức Án sát dưới triều vua Lê. Trước đó, Đào Thinh là dân sơn tràng. Khi giặc rừng càn quấy dọc rừng từ Xứ Thanh vào Xứ Nghệ, Đào Thinh gia nhập quân triều đình và lập công lớn được phong đến chức Án sát. Từ đấy dòng họ Đào kế tiếp nhau hai trăm năm trải qua nhiều triều đại và bao nhiêu biến động thời cuộc, cuối cùng xúm xít ven sông Duềnh. Đến đời ông nội Ông, họ Đào có bốn chục gia đình, hầu hết nghèo khó trừ gia đình Ông. Nhà cao, cửa rộng, ruộng cho dân hàng tổng cày rẽ. Năm 1929, cha Ông dựng một căn nhà gỗ lợp ngói đất, thưng ván kín trong lùm cây cuối làng, làm kho chứa thóc cũng là chỗ hội họp của Đảng Tân Việt, sau là Chi bộ Đảng Làng Yên. Mười lăm năm sau, Ông sinh trong căn nhà ấy. Hôm đó, cờ đỏ rực đường, dân làng rầm rộ kéo nhau xuống huyện cướp chính quyền. Lại mười năm sau, trong phong trào nông dân cải cách ruộng đất, cha Ông bị bắt bỏ tù vì dòng họ Đào có người từng làm quan cho chính quyền phong kiến. Phúc nhà cho Ông, đồng chí Bí thư Huyện ủy từng được cha Ông cưu mang trong ngôi nhà gỗ xưa đã lấy công trừ tội cho gia đình Ông. Cha Ông là kẻ thức thời, vét thóc trong kho, bớt vàng trong tủ sắt hiến cho làng xây kho Hợp tác xã, làm đường giao thông liên làng, liên xã. Năm 1965, Ông tròn 18 tuổi cũng là lúc xẩy ra chiến tranh. Vào lúc thanh niên nô nức ra chiến trường người con trai dòng họ Đào ở lại làng Yên lãnh đạo nữ thanh niên rầm rộ phong trào này đến phong trào khác. Từ phân xanh, phân ủ, bèo hoa dâu đến xây dựng thư viện, học bổ túc văn hóa, bài trừ nhạc vàng...Rồi Ông chém chém bàn tay có sáu ngón vào không khí, kêu gọi chống tàn dư chế độ Phong kiến. Dân làng theo Ông phá miếu Thành hoàng, phá cả trung điện nhà thờ họ Đào. Tên tuổi Ông chườn ườn trên Báo tỉnh. Ông thành Bí thư Đoàn rồi Phó bí thư Đảng ủy xã. Cha Ông chết, cái chết đột ngột do nhồi máu cơ tim. Ma chay cho cha xong, Ông giao đền thờ Đào Thinh, bấy giờ chỉ còn mỗi nhà Hạ điện và chức tộc trưởng họ lại cho ông chú rồi tìm đường lên Thành phố. Sau chiến tranh, cơ quan nào cũng cần người làm việc. Ông trở thành cán bộ Nhà nứơc. Về sau, hàng chục năm, ông vung bàn tay sáu ngón chém vào không khí nhiều lúc, nhiều nơi...

Ảnh: tinmoi.vn
Ảnh: tinmoi.vn

Lời kể thế, hầu hết kể về Ông. Tư liệu nhà thờ Đào Thinh thì lờ mờ. Có chuyện năm nào đó, cụ Đào Thinh được vua ban cho chức Án sát. Có chuyện cụ làm thủng ruột kho thóc của Triều đình bị giáng chức. Hai cái sắc phong Phòng quản lý di sản sưu tầm được thì chữ còn, chữ mất. Tôi buồn bã nhìn Ông. Dường như mỏi mệt, Ông tựa hẳn người vào bức tường màu nâu, duỗi dài chân và thu hai bàn tay xuống dưới đầu gối. Toàn bộ con người Ông, từ dáng ngồi, nét mặt, giọng nói đến đôi gót chân trần choài đi choài lại trên mặt đất...thể hiện rõ nét vẻ của kẻ thất thế. Vẻ bệ vệ với bàn tay sáu ngón chém chém đầy quyết đoán tôi thấy ở nhà hàng Hoàng Tử ngày trước không còn nữa. Sông có khúc, người có lúc, hẳn thế, nhưng vì sao có sự đổi thay nhanh làm vậy. Tôi nhìn Ông, rồi nhìn ra khoảng không đang sẫm tối dần trên cái sân gạch xao xác lá vàng, lòng bỗng thấy bùi ngùi. Tôi dịch vào gần Ông hơn, rồi nói:

- Tôi xin về để kịp chuyến xe cuối ngày.

Đột nhiên Ông hỏi:

- Tối chưa ?

Tôi ngơ ngác mất một lúc, rồi đáp:

- Còn mặt trời.

Ông nghiêng nghiêng đầu, hỏi:

- Sao không nghe tiếng sóng Bến Duềnh ? - Hỏi xong thì gục đầu xuống ngực. Tôi định nói Ông hỏi sóng Bến Duềnh làm gì, nhưng tự nhiên thấy thương thương, đành thôi.

Trong vòm nhà sẫm tối, dơi từ hốc, hẽm nào đó bay ra liệng vòng tròn trên đầu chúng tôi. Ông tựa lưng vào tường, câm lặng. Gió nhẹ như phẩy lông gà, không khí bỗng trở nên ngột ngạt.

Tôi đi nhanh ra khỏi nhà thờ. Trong cái đầu âm âm u u chẳng thấy ra một điều rành mạch.

Về đến nhà, vợ đưa cho mấy chữ hắn viết trên một tờ lịch: “Tao muốn gặp mày.”. Sau đêm lung tung, mờ mịt đã kể trên, tôi chán hắn thật. Gần nửa năm không liên hệ với hắn. Hắn cũng chẳng qua lại với tôi, chẳng nhắc gì chuyện xếp hạng di tích đền thờ Đào Thinh. Nay mới té ngửa ra là Ông có còn chức quyền nữa đâu. Chao ôi, hắn ơi là hắn.

Bẵng đi mấy ngày, tôi đang đi dọc vỉa hè thì cụng phải hắn. Hắn kéo tôi vào cái quán nứơc chè xanh trong hẻm.

- Lâu rồi không gặp nhau – Hắn nói.

Tôi nói :

- Mày tính, hết viết hồ sơ di tích thì sang sưu tầm hiện vật, tư liệu, thư tịch...Việc làm không hết. Sau đêm gặp Ông và mày về tao trình tay Giám đốc Sở việc xếp hạng nhà thờ Đào Thinh. Ông ta vỗ tay hoan nghênh và dặn làm nhanh vào, làm tốt vào. Còn nói cái di tích ấy dính tới Ông, tức là dính tới Sở, dính tới cả tao nữa. Nhưng tao không thể nhanh được. Mò đâu thiếu tư liệu đó. Hôm mày đến nhà, tao đang ở làng Yên, đến đền thờ Đào Thinh, nhưng chẳng tìm kiếm được gì thêm. Mày biết tao gặp ai ở làng Yên không ?

Hắn nói, giọng bỗng nhuốm buồn:

- Tao biết, mày gặp Ông. - Nói xong, cụp mắt xuống.

Tôi im lặng. Hắn cũng im lặng. Đến giờ tôi không còn hiểu vì sao tôi lại chơi với hắn. Ở chiến trường về, nhờ cái mã đẹp trai và miệng lưỡi dẻo quẹo hắn vào làm nhân viên Phòng quảng cáo Đài Truyền hình tỉnh. Được vài tháng thì bỏ, đạp xe đap đi khắp nơi viết báo. Hắn tìm đến tôi nài nỉ sửa bài hộ trước lúc gửi đến tòa soạn. Trời sinh ra tôi không lạnh lòng được với ai bao giờ. Tôi sửa tin, bài của hắn như đẽo gỗ thành cày. Rồi hắn có tên trên Báo tỉnh, Báo Trung ương. Đột nhiên hắn nói viết báo phải đi nhiều, vắt óc, lọc máu ra viết mà nhuận bút thì rẻ bèo bọt, không đủ tiền ăn xôi sáng. Thôi, bỏ. Từ ấy hắn lang thang. Người ta thấy hắn xuất hiện khắp nơi, gặp gỡ những vị tai mắt trên tỉnh, chủ sị các cuộc nhậu giữa Ông với Giám đốc các Doanh nghiệp. Thậm chí có kẻ đến cầu cạnh hắn giúp việc này, việc nọ. Tôi không hiểu nổi. Hỏi, hắn nói cơ chế thị trường mọi thứ đều trở thành hàng hóa, nước bọt cũng là hàng hóa. Rồi cười rỉ tai tôi là hắn làm nghề bán nước bọt, phục vụ cho Ông. Ông và hắn hai bên đều có lợi. Lại nói cuộc đời nhôm nhoam này không có loại người như hắn, làm những cái nghề không phải là nghề như hắn thì chẳng còn là cuộc đời, thì nhiều ông này, bà nọ lấy gì mà nên sung sướng. Ngẫm, có lẽ mình thiếu thực tế, mình mây mưa nên không hiểu hết thời buổi mình đang sống. Thế nên im lặng, không hỏi nữa và tìm cách lánh xa hắn. Nhưng tôi càng lánh, hắn càng sáp lại. Hắn giữ nghĩa, đền ơn hay hắn lợi dụng cái nhà văn của tôi để nước bọt hắn có giá? Mường tượng ra một mạng nhện quan hệ bốn phía chung quanh hắn, sức vóc tôi không thể gỡ ra. Nghĩ lung tung, rối rắm vậy; bất giác tôi hỏi:

- Lâu nay làm ăn thế nào ? Nom cái mặt hồng hào...

Hắn ngắt lời tôi, giọng tức tối:

- Mấy em chân dài cho tan nát hết rồi.

Tôi lại chợt nhớ cái Hội săn bắt xếp anh nhà báo nói hồi nào đấy và cái thói tò mò nổi lên, cựa quậy trong người.

Về sau tôi biết:

Ông là người máu mê gái gú nên những đêm nhậu hắn tổ chức bao giờ cũng có các em xinh đẹp. Đêm ở nhà hàng Hoàng Tử ấy, hắn gọi cô áo trắng đẹp lả lơi trong số gái hầu rượu hắn từng biết. Cô áo trắng rủ thêm cô áo đỏ bạn bè thủa nảo nào từ Sài Gòn vừa ra. Tôi say, hắn đưa tôi về khách sạn. Tôi ngủ còn cuộc nhậu vẫn tiếp, chuyên bàn chuyện làm ăn mánh mú. Mấy ông Giám đốc Doanh nghiệp, Công ty đêm ấy như được hắn cho gặp Thượng Đế, lợi lộc bằng hàng năm lao tâm, khổ tứ. Nửa đêm ngã nghiêng hết. Cô áo trắng dìu Ông lên phòng, ở lại bao lâu, có làm gì không, ai dìu ai nữa, hắn đếch quan tâm. Cả chuyện cô áo đỏ ghi âm, chụp hình, mãi khi báo đăng tin hắn mới té ngửa. Những kẻ đau đáu cái ghế của Ông, những người từng bằng mặt không bằng lòng với Ông gặp cơ hội họ đứng cả lên, tung ra đủ thứ đòn. Hắn nói thương lắm, Ông cao áp huyết, chuyện xẩy ra đột ngột quá, kinh quá, không chịu nổi, nó tăng vọt lên trên 200. Não không hề hấn gì nhưng đứt mất một sợi dây thần kinh nào đấy khiến hai con mắt cứ mờ dần rồi mù hẳn. Chức tước không còn, thiên hạ thì như đã biến mất. Chắc không chịu nổi cô đơn và sự thất vọng chưa một lần gặp trong đời, hay vì một cái lý, cái tình nào khác, ông về quê .

Tôi hỏi:

- Thế cô áo đỏ hiện nay thế nào?

Hắn đáp:

- Vẫn đẹp hút hồn. Và đã bỏ đội quân săn bắt xếp rồi. Không còn làm

Công chúa Liễu Hạnh nữa.

- Sao ? – Tôi hỏi, ngớ ngẩn.

Hắn nói:

- Đã lập được sự công bằng ở cõi trần, bay về trời Sài Gòn rồi..

Tôi hỏi:

- Có chăng cái sự công bằng mày nói ấy, thì cũng là cho cô ấy chứ gì đến cõi trần với lại trời đất ?

Hắn nói:

- Này, tao nghi ngờ giữa Ông và cô áo đỏ có mối quan hệ nào đó, từ thời nào đó. Là cái gì nhỉ ? Mày có biết môn khoai thế nào không?

Tôi nói:

- Mày là đệ tử của ông ấy bao nhiêu năm mà còn đi hỏi tao ư .

Hắn nói:

- Tao chỉ rành các dự án với cơ cấu tổ chức cán bộ trong đầu ông ta, còn các thứ khác tao chẳng quan tâm. Đến nay tao cũng chẳng biết Ông có mấy đứa con. Cái Nhà thờ Đào Thinh nào đó tao hô lên to tát thế nhưng có thấy nó vuông, tròn ra sao đâu. Quan hệ thời nay nó vậy. Mà riêng chi tao.

Tôi nói, không giấu nổi sự uể oải:

- Sau đêm uống rượu ở nhà hàng Hoàng Tử ấy tao không gặp lại họ.

Hắn khoát tay:

- Tao không tin.

Hắn không tin là việc của hắn nhưng quả thực là mãi sau này, tôi mới nghe dân làng kể:

...Thuở ấy, làng Yên chỉ mỗi một con đường nối với thiên hạ chạy vòng vèo giữa đồng không mông quạnh. Trên con đường ấy có một cái cống Đá rộng hai mét dài ba mét xây từ thời Pháp, thường xuyên bị ném bom. Mùa hè năm 1968, bà Nghĩa làm nghề đánh bắt cá mụn trên sông Duềnh trở thành người chèo đò ngang. Cha Ông vét hầu bao sắm một con thuyền ba ván cho bà Nghĩa đưa dân làng qua sông tránh đi qua cống Đá. Bến đò nằm đầu làng, có tên gọi Bến Duềnh. Nơi ấy có một cây đa đơn côi nằm giữa một bãi cỏ mật. Qua bãi cỏ là dãy lau ngút ngát len giữa những cây bần um tùm cành lá. Bến có ba bậc đá, những viên đá hình vuông ghép khít vào nhau. Những năm ấy, khắp nơi rùng rùng bom đạn ngỡ như chỉ mỗi Bến Duềnh là thanh bình, tĩnh lặng. Sau lần gặp con gái bà Nghĩa, Ông không thể hiện sự dũng cảm của mình bằng cách đạp xe qua cống Đá lên xã, về làng mà bằng đò ngang qua sông Duềnh. Mà về lúc trời tối, lúc cô Lài, ra thay mẹ chèo đò, cữ gần nửa đêm. Ông muốn cô Lài. Cô Lài cao ráo, trắng trẻo, ngực ngồn ngộn cứ dồi lên, sẹp xuống như sóng... Là con nhà tử tế, nhưng không phải không khao khát cái mùi đàn ông. Nín nhịn được non tháng, cho đến một đêm mưa gió, sóng vỗ tung tóe nơi ba bậc đá Bến Duềnh thì cô ngã vào vòng tay ham hố của Ông. Bén hơi nhau rồi thì không dứt được, thì cứ lăn lộn trên bãi cỏ, trên bậc đá, trên sạp thuyền. Tai vách, mạch rừng. Chuyện hủ hóa ở Bến Duềnh bay khắp mọi ngóc ngách, từ bếp ra ngõ, từ ngõ ra đồng, từ đồng về làng. Ông bỏ đi đường đò ngang. Vẫn thèm cô lái đò làm tình dữ dằn, quằn quại, nhưng Ông chịu đựng thật lì lợm. Hàng tháng bến đò về đêm yên tĩnh, chỉ có tiếng sóng ì oạp vỗ vào ba bậc đá và tiếng thở dài não ruột đến chao lắc cả con thuyền. Ông phải đi khỏi làng. Một đêm, Ông luồn lách qua bãi lau xuống Bến Duềnh. Gà gáy canh một, Ông nói với cô Lài miệng thế gian như chông nhọn làm khổ chúng mình. Gà gáy canh hai, Ông nói anh phải lánh đi một thời gian để tránh dư luận. Gà gáy canh ba, Ông nói khi nào anh có vị trí trong cơ quan nhà nước anh đưa em đi khỏi làng và chúng ta tổ chức lễ cưới...Gà gáy rộ, cô Lài thôi khóc, ngước mắt nhìn Ông, nói em đã có thai. Ông đứng dậy, hổn hển rằng chưa được đẻ lúc này, chưa được đẻ ... Rồi nói thêm, trời sáng rồi anh phải về để tránh mắt nhìn dân làng... Lên khỏi ba bậc đá, đứng giữa bãi cỏ mật Ông chém bàn tay sáu ngón vào sương mù, rủa thầm”Bến Duềnh chó chết. Ta sẽ không trở lại với mày.”. Ông đi rồi, mẹ con Bà Nghĩa cho thuyền trôi theo sông Duềnh. Không chịu nổi người đời dè bỉu, bà Nghĩa gửi người con gái bụng mang dạ chửa lên ông cậu ở trong rừng. Rồi trở về nghiến răng chèo đò qua sông. Cô Lài sinh con dưới gốc cây trên rẫy ngô. Thiếu thốn, cực khổ lắm. Mấy lần cô bồng con đi gặp Ông nhưng không được còn bị bảo vệ, công an đuổi như đuổi chuột. Hai mẹ con khóc, lủi thủi về rừng. Bà Nghĩa chết bom khi đang chèo đò. Ông cậu cũng chết. Lần nữa, cô Lài đi tìm gặp Ông thì Ông đã ở bên kia quả đất; nghe bảo nhà nước gửi Ông đi đào tạo lâu năm. Về, Cô Lài bán gia sản cậu để lại rồi bồng con vào Sài Gòn sống. Lài làm đủ nghề, không ai biết những nghề gì, nhưng giàu lên nhanh lắm. Bạn bè của Lài thì nhiều như lá. Mẹ con họ chẳng thiếu thốn một thứ gì. Nhưng người con thì đau vì không biết cha mình là ai. Hồi nhỏ ở trên rừng, con gái hỏi thì Lài khóc nói khi nào lớn sẽ biết. Sau này con lớn, thành thanh nữ rồi hỏi, hỏi riết, cô ta mới kể... Người con gái trốn mẹ về quê tìm cha. Mất mấy ngày là cô biết con người là cha mình. Họ gặp nhau, ngồi với nhau nữa, nhưng Ông không biết con gái mình, còn cô gái thì không hé răng. Cô ta ngậm kín thù hận chờ cơ hội thanh toán nợ nần với cha mình.

Hắn nhìn thẳng vào mắt tôi, rồi nhìn xuống chén nước đang không thôi quay tròn trong những ngón tay nần nẫn của hắn. Dường như một cảm giác bứt rứt không yên đang làm tình làm tội hắn. Hắn nói:

- Mày không biết chứ để lắp ghép được một mối quan hệ với các vị quan chức cỡ bự như Ông mất hàng năm trời và hao tổn lắm. Không Ông tao thành ra bơ vơ, đang không biết làm gì, đang không biết đi về đâu- Hắn trút một tiếng thở dài thõng thượt với vẻ tiếc nuối đến tội nghiệp.

Tôi hỏi

- Là thế nào ?

- Là thế - Hắn đáp, cụt ngủn – Rồi nói tiếp, giọng buồn chán- Nhưng thôi, nghĩ làm đ... gì nữa. Mày cho tao một lời khuyên...

Tôi nói:

- Tao gặp lại Ông thấy Ông già lắm rồi, thành lão rồi, nom tội nghiệp nữa. Dẫu sao thì mày đã có một thời gian dài gắn bó, làm ăn với Ông, nay nên đến thăm hỏi Ông cho phải đạo. Xét cùng, mày là thằng có liên quan đến nhiều chuyện của Ông.

Hắn lí nhí:

- Mày nói đúng.

Hôm sau tôi và hắn có mặt ở làng Yên. Đền thờ Đào Thinh cửa đóng im ỉm, trong bóng râm của những cây mưng già và sương sớm chờn vờn, nom như một ngôi nhà bỏ hoang. Chúng tôi tìm đến nhà người cháu của Ông. Đấy là một thanh niên thấp chũn, nét mặt buồn buồn, đôi mắt âm u. Anh ta tiếp chúng tôi vẻ rất miễn cưỡng. Tôi hỏi Ông ở đâu, anh ta đáp, mỗi hai tiếng đi vắng . Mãi sau khi hắn nói hắn là bạn của Ông tròn năm năm qua, anh ta mới trở nên cởi mở...

Anh ta kể:

- Bác tôi về làng sau gần 30 năm. Vợ mất rồi, hai người con ở nước ngoài, Ông về một mình trên chiếc xe tải, thùng xe chất mấy cái hòm sắt, hòm gỗ, đủ cỡ. Dân làng từ trong các lối ngõ ùa ra, kéo đến nhà tôi, đứng giữa sân nhìn bác tôi ngồi trên cái phản gỗ kê giữa gian bảy nhà. Trong đám đông có nhiều tiếng thở dài và cả những tiếng cười. Có lẽ đó là tiếng thở dài, tiếng cười cho một vị thế xã hội bị sụp đổ. Dân làng đã biết chuyện bác tôi về làng đâu chỉ vì bệnh tật. Họ đến, rõ là không phải để đón ông mà cho thỏa mãn trí tò mò. Buồn lắm. Buồn cho bác, buồn cho tôi, buồn cho đời. Trưa hôm sau, tôi làm một chầu lễ tại nhà thờ họ để an ủi bác và để lấy lòng dân làng và bà con trong dòng họ Đào. Hương đen, hương trầm, mâm ngũ quả, xôi trắng, thịt gà, thủ lợn la lượt. Sau này nghe đồn, lúc hương sắp tàn có một đám mây hình con mắt, tua riềm chung quanh giống hệt lông mi phủ kín mặt trời một lúc rồi rơi xuống Bến Dềnh. Họ bịa. Ý nói trời có mắt. Miệng lưỡi người đời nó vậy. Mấy ngày sau, bác tôi bỗng dưng ôm quần áo ra ở ngoài đền thờ. Tôi hỏi vì sao, ông đáp ở nhà nóng, ở đền thờ gần sông Duềnh, mát. Bác tôi già lão rất nhanh. Ông nặng nề kéo lê đôi chân như thể được linh cảm dẫn dắt sờ soạng trong không khí đi khắp ngóc ngách nhà thờ, lau chùi, quét dọn. Ngày ba bận tôi đưa cơm ra cho ông. Ông vừa nhẩn nha nhai vừa hỏi đủ thứ trên đời. Hôm kia, đang ăn, ông bỗng đặt bát cơm xuống, hỏi có ai ở ngoài sông không? Giọng bác tôi lạ lắm, nó khiến tôi nghĩ tiếng nói của ông phát ra từ chỗ nào đó sâu thẳm lắm trong lòng. Tôi nói xưa có Bà Nghĩa chèo đò ngang, nhưng nay thì không, nhiều đường mới không ai qua đò nữa. Bà Nghĩa thì chết rồi, con gái đi xa rồi. Chuyện ông và cô Lài, con gái Bà Nghĩa, tôi biết. Ông thì không đả động tới. Đường quan chức của ông trơn tru. Xã lên thẳng tỉnh. Một thời gian sau thì sang Tây năm năm. Về, thành quan to. Mấy lần bầu bán, chỉ có lên, không xuống. Chức lớn, việc lớn, những cái riêng tư xưa cũ ông chẳng để tâm. Mấy lần tôi định nhắc bác tôi chuyện chị Lài, nhưng rốt cuộc không biết sao không nói nổi. Nay thì bác tôi đã nhớ lại ? Giọng nói của Ông, cử chỉ của Ông, cả con người Ông mách bảo với tôi thế. Thấy tình cảnh ông ra vậy, tôi nén lòng mà nói là chuyện lâu rồi, đã bỏ qua hàng bao năm rồi, nay quên luôn đi. Bác tôi lắc đầu, khoát khoát tay, mặt méo xệch một cách đau đớn. Rồi Ông nói, như không phải nói với tôi, mỗi hai tiếng không, không. Chẳng biết không cái gì nữa.

Tôi hỏi:

- Anh đã gặp mẹ con chị Lài chưa ?

Anh ta không đáp mà cúi nhìn xuống bàn chân mình. Thấy vậy, tôi không hỏi nữa. Anh em trong dòng họ, cái ruột rà là của họ.

Nãy giờ hắn cứ lắc đầu và thở dài, bỗng nói:

- Chúng ta ra Bến Duềnh xem sao.

Anh ta nói:

- Không có gì nữa đâu, mỗi cỏ và lau lách. Nhưng đi thì đi.

Lúc qua lối rẽ vào đền thờ Đào Thinh, tôi và hắn không ai bảo ai cùng đứng lại, ngoảnh nhìn. Gần trưa, nắng chấp chới trắng, ngôi đền thờ trở nên mờ mờ như một ảo ảnh. Đột nhiên anh ta nói:

- Hai anh quên việc xếp đền thờ thành di tích đi Có cái tên với lời truyền khẩu còn ruột trống, sử sách thì thời thế này, thời thế khác. Gần đây bác tôi tính toán cái gì đấy mà nghĩ ra việc đưa đền thờ thành di tích, tu bổ, tôn tạo nó, còn thì suốt hàng chục năm qua Ông đâu có ngó ngàng. Năm kia, bà con trong dòng họ Đào, ba mươi bảy hộ, hơn một trăm đinh nổi giận gửi thư lên Ông, họ còn đòi thay tộc trưởng.

Tôi ngoảnh nhìn gương mặt buồn buồn của anh ta, không nói gì thêm. Chúng tôi đi qua một quãng đường đất lồi lõm, lầy lội, cỏ và cây trinh nữ bị dấu chân trâu bò dẫm nát, vàng hoe. Sông Duềnh nước cường, dập đềnh những chùm bong bóng trôi lẫn trong rác rưỡi và hoa bần. Thỉnh thoảng một con sóng trườn lên bậc đá thứ ba, chỗ chúng tôi đứng.

Tôi và hắn lại nói muốn gặp Ông. Lần này anh ta mới cho chúng tôi hay là Ông bị ngã, đầu va vào cái gì đấy đang phải nằm viện. Bỗng dưng tôi nghĩ Ông bị ngã ở bậc đá Bến Duềnh. Cũng có thể như thế lắm. Hôm trước tôi về chẳng phải Ông hỏi sóng sông Duềnh mấy lần đó sao. Hỏi sự tình Ông ngã ra sao, bị nặng không, thì anh ta chỉ lắc đầu mà không nói gì.

Một tháng sau, tại lễ tang Ông, dân làng kể với tôi:

Ông nói với người cháu là đêm nào Ông cũng thấy có một đốm lửa từ đâu đó bay vòng trên cao rồi rơi xuống nóc nhà thờ. Chắc tâm thần không yên mà nghĩ ra vậy. Người cháu khuyên Ông về nhà. Ông không nghe. Đêm mười bốn sáng rằm tháng bảy, mưa rả rích còn gió thì quật quả trên ngọn cây Ông quờ quạng thắp lên bàn thờ ba nén nhang rồi chống gậy lọ mọ đi. Ông chẳng biết mình đi đâu. Một cái gì đó, ở đâu đó đang dắt dẫn Ông ra khỏi nhà thờ, xa dần nhà thờ. Ông theo con đường làng nồng mùi rơm mục và hương hoa cỏ mật. Đâu đây có tiếng cào cào đập cánh tanh tách rộ lên như một cơn mưa rào. Ông nghe tiếng lửa ma trơi kêu lèo phèo ở bãi nghĩa địa phía cuối cánh đồng. Ông nhớ ra con sông Duềnh sau khi gập mình hôn làng Yên thì quành ra ôm lấy bãi nghĩa địa. Chỗ sông hôn làng ấy là bến tắm, bến đò Duềnh. Trên bến một bãi cỏ và cây đa già. Cạnh gốc đa có một cái lều làm chỗ trú mưa cho khách chờ đò qua sông. Từ cửa lều xuống ba bậc đá là gặp nước. Những bậc đá màu nâu bám đầy rêu. Có con đò mạn ép vào bậc đá thứ ba. Bỗng nhiên Ông thấy người gây gây lạnh, còn mặt đất dưới chân thì cứ chòng chành. Hình như Ông đã gần tới bãi cỏ. Ông mường tượng một mảnh mây có tua riềm hình mắt người sáng rực trên đỉnh đầu và đâu đó trong tĩnh lặng có tiếng sóng nghe khắc khoải. Ông dò dẫm bước về phía tiếng sóng. Ông cụng phải bức phên nứa và một sợi cỏ gianh mềm mại kéo qua vành tai. Ông lần xuống bậc đá thứ nhất, rồi bậc đá thứ hai. Ông nghe một làn sóng dựng lên giữa sông, nghe tiếng người trở mình trên sạp gỗ, nghe mùi hoa bần và một thứ mùi gì nữa lần đầu tiên Ông biết có trên cõi đời.

- Đò ơi ! – Ông gọi, tiếng gọi chìm dần xuống sông.

Hôm ấy, tôi nhìn hắn ngồi ủ rủ bên mộ Ông và chợt nhớ có lần hắn triết lý rằng, đời sinh ra loại người như Ông thì phải có loại người như hắn lại phải có loại người như cô áo đỏ. Bíu lấy nhau...mà đi. Rồi thì cuối cùng mỗi người có một nơi trở về. Ông đã về với Bến Duềnh rồi. Còn hắn ? Còn cô áo đỏ? Còn bao nhiêu người nữa?

Tháng 5- 2009

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast