Họ mang dòng máu Việt

Mỗi chiều, cụ bà Vi Văn Ma Son, người dân tộc Thái đều nhờ con cháu đưa ra đầu sàn nhà. Không rõ bà chờ đợi điều gì từ ánh mặt trời le lói đằng Đông hay những sợi tơ bao năm nay vẫn nằm im trên guồng xa cũ kĩ. Đã sống qua 100 mùa rẫy, ăn qua 100 mùa măng ở đất Na Pê, bà như con thú già thuộc rừng, quen rú, nhưng cái lòng như dòng Nậm Tuồng đã đổ nước về Lào, mà vẫn không nguôi nhớ thác ghềnh Keo Nưa trên đất Việt...

Những đứa con tha hương

Trong màn sương mù dày đặc, đỉnh núi Giăng Màn trùng điệp giữa mây ngàn sương trắng khiến cảnh vật một miền biên viễn phía Tây Tổ quốc như xa xăm vời vợi. Ngọn núi ấy cũng là nơi khởi nguồn của 2 dòng nước. Một dòng đổ về triền Đông trên đất Việt mang tên Ngàn Phố, dòng nước còn lại là Nậm Tuồng xuôi cánh Tây chảy về với vùng đất Chămpa. Ngàn năm qua, hai dòng chảy ấy đã bền bỉ mang trong mình biết bao trầm tích văn hóa của hai dân tộc Việt – Lào thủy chung, sâu nặng.

Lịch sử ghi lại, trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, đường 8A từ Hồng Lĩnh tới ngã ba Thoọng Pẹ, Lạc Xao là một trong những con đường vận chuyển chiến lược của ta vào chiến trường miền Nam qua đất bạn Lào. Những đôi vai trần của bao chàng trai, cô gái Lào năm xưa đã sát cánh cùng bộ đội Việt Nam tạo nên những cây cầu bắc trên vai người để hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực, thuốc men vượt qua truông, qua suối, chuyển vào tuyến lửa. Rồi những ngày tháng sau đó, nhân dân các bản Thoọng Pẹ, Na Pê, Lạc Xao, Na Hạt… cũng là những người đầu tiên đổ ra đường chào đón hàng vạn quân tình nguyện Việt Nam sang chiến đấu vì đất nước và nhân dân Lào anh em.

Quân y Biên phòng Hà Tĩnh khám chữa bệnh cho nhân dân bản Thoọng Pẹ (Lào)
Quân y Biên phòng Hà Tĩnh khám chữa bệnh cho nhân dân bản Thoọng Pẹ (Lào)

Trên 9 bản thuộc địa bàn huyện Căm Cớt, tỉnh Bôlykhămxay, nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, bạn sẽ luôn được nghe câu chào dễ thương cùng cái chắp tay của những người bạn Lào hồn hậu. “Việt Nam – Lào Samakhi”, nghĩa là Việt Nam – Lào đoàn kết. Gọi là bản nhưng đối với nước bạn thì bản được coi là một đơn vị hành chính tương đương với cấp xã của nước ta. Và bạn cũng đừng ngạc nhiên khi nghe ai đó nói một câu tiếng Việt thật chân thành “Anh chị mới ở quê ta sang đấy à?”. Nếu được nghe câu nói ấy, có nghĩa là bạn đã gặp một người Lào gốc Việt. Họ là những người con trong chiếc bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ trong huyền tích, vì chiến tranh tao loạn, vì trốn chạy khỏi tù đày, lao dịch, vì đói ăn khát uống mà ly hương đến với đất này từ thập niên 50 thế kỷ trước.

Hơn nửa thế kỷ sinh cơ trên đất bạn, họ mang theo quê hương trong mỗi khung cửi dệt, trong giọng nói tiếng Việt ngập ngừng. Dù không được định danh bằng những mỹ từ như “Việt kiều” hay “Kiều bào hải ngoại”, họ vẫn hướng về quê cha đất tổ bằng cả tấm lòng. Nhớ lại buổi đầu đặt chân lên bản Na Pê, huyện Căm Cớt, bà Khăm Con ngậm ngùi: Do đói quá nên cha mẹ chúng tôi tìm đến nơi đây để kiếm củ sắn, củ mài. Một số người khác thì do bị Pháp bắt đi phu khai thác mỏ... Cuộc sống chốn rừng thiêng nước độc khiến cho nhiều dân phu chết và đổ bệnh, những người khác khiếp hãi nhưng không dám trở lại quê nhà, đành vượt rừng trốn sang bên này từ trước những năm 45 của thế kỷ trước.

Thời điểm ấy, cánh đồng Na Hạt có một khu vực quân Pháp đồn trú nên thế hệ những người Việt đầu tiên ấy đã được các bộ tộc Lào anh em che giấu để không bị bắt lại. Định cư chưa được bao lâu, họ lại phải đối mặt với những nguy hiểm mới. Sau khi Pháp thất bại ở Điện Biên Phủ, bắt buộc phải ký hiệp định Giơ-ne-vơ 1954 về Đông Dương, các nước tham gia hội nghị tuyên bố tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào và Cămpuchia. Nhưng trên thực tế Pháp vẫn giữ quyền cai trị tại Lào nên hầu hết những người Việt tha hương này đều bị bắt. Và, bố của ông Nguyễn Khắt, chủ một cửa hiệu tạp hóa nhỏ ở bản Thoọng Pẹ là một trong số những người may mắn ấy.

Sâu rễ, bền gốc nơi đất mới

Ngày đó, để không bị lẫn và đồng hóa cùng các tộc người sinh sống ở nơi này, họ đành phải chọn cách bỏ những cái họ mang theo từ Việt Nam để tránh tai mắt của bọn do thám và cũng ngầm quy định rằng, những ai không mang họ là người Việt mình. Chính vì lẽ đó mà hầu hết những người Lào gốc Việt sống rải rác ở khu vực biên giới khắp tuyến Việt - Lào đều không có họ. Mãi sau này, khi có điều kiện trở lại thăm quê cũ, họ mới nhận lại cho mình những cái họ như Nguyễn, Trần, Vi, Thào… Qua thống kê, hiện ở bản Na Pê có gần 90% người dân mang dòng máu Việt. Quê gốc của họ chủ yếu là những bản người Thái ở làng Chè, xã Sơn Kim 1 (Hương Sơn).

Cán bộ đồn BPCKQT Cầu Treo, BĐBP Hà Tĩnh tuần tra khu vực biên giới. Ảnh: VĐ-HP
Cán bộ đồn BPCKQT Cầu Treo, BĐBP Hà Tĩnh tuần tra khu vực biên giới. Ảnh: VĐ-HP

Ông Vi Văn Tít – đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào, hiện là Trưởng bản Na Pê vui mừng cho biết: Ông quê gốc ở làng Chè nhưng lại được sinh ra tại Lào và được bà con tín nhiệm bầu làm trưởng bản nhiều năm nay. Vi Văn Tít được chính quyền các cấp ở nước bạn Lào tặng nhiều bằng khen, danh hiệu thi đua. Chăm chỉ làm ăn nên cuộc sống, sinh hoạt trong gia đình 8 người của ông khá đủ đầy. Người vợ quí của ông không những giỏi cái miệng hát, siêng cái tay làm rẫy mà còn biết giữ nét duyên của người con gái Thái đất Việt. Những bát phẩm màu được mua từ Việt Nam sang nhuộm trên lóng tơ bằng đôi tay vén khéo này sẽ nở hoa trên khung dệt, tạo nên nét duyên trên váy áo người phụ nữ Na Pê.

Gia đình ông Nguyễn Khắt giờ đây đã có thêm thế hệ thứ 4. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về, ông Khắt lập gia đình với một phụ nữ người Lào và cùng nhau làm ăn, nuôi dạy con cái. Hiện nay, ông Khắt được bầu vào ban lãnh đạo phụ trách lực lượng dân quân và an ninh của 9 bản huyện Lạc Xao. Ông dạy con nói tiếng Việt và thường xuyên đưa con cháu về thăm họ hàng tại Việt Nam. Ông Dông Nụ - Chủ tịch Mặt trận bản Thoọng Pẹ là một trong 4 đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam sau khi sang nhập quốc tịch Lào đã được các cơ quan chức năng hướng dẫn, giúp đỡ để chuyển Đảng và trở thành đảng viên Đảng Nhân dân cách mạng Lào.

Ấm áp phong tục Việt

Dẫu cuộc sống của những người Lào gốc Việt có nhiều điểm giống với người Lào nhưng họ vẫn không từ bỏ những phong tục gốc gác của mình. Họ vẫn lập bàn thờ gia tiên và đặt ở trên cao, nơi trang trọng nhất trong nhà. Phong tục ở Lào là khi gia đình có người chết, họ đem đi thiêu rồi đưa tro cốt lên chùa là xong. Ở bên này, các gia đình gốc Việt vẫn chọn cách hung táng rồi cát táng và tổ chức cúng giỗ bố mẹ hàng năm. Thậm chí bà con còn cử ông Vi Văn Pan, thầy cúng của bản về Việt Nam để học cách xây đền thờ của bản. Đây sẽ là nơi bà con đến để cầu xin mọi điều may mắn cho gia đình và người thân.

Ngoài những ngày tết của người Lào như tết Pi May (năm mới) thường được tổ chức vào giữa tháng 4 dương lịch, họ còn tổ chức đón tết Mông và Tết Nguyên đán theo phong tục Việt vào ngày đầu tiên của năm âm lịch. Những năm âm lịch của Lào và Việt Nam không trùng nhau, bà con thường về Việt Nam ăn tết. Trong dịp tết, bà con sẽ nghỉ làm suốt 10 ngày. Gia đình nào cũng rộn ràng chuẩn bị rượu, thịt để mời bà con trong bản đến chơi tết. Và quan trọng nhất là không thể thiếu mâm cơm cúng tổ tiên. Mâm cỗ chỉ có vài ba món giản đơn. Thầy cúng khấn bằng tiếng Lào bởi họ quan niệm muốn bố mẹ “hắn” về ăn cơm cúng thì phải khấn tiếng Lào, có thế người cai quản con ma Lào mới cho phép về!

Trong những ngày tết Việt, bà con ở các bản thường tụ tập nhau lại để ăn uống và chơi đùa trong suốt một tuần. Trước cửa các gia đình thường treo cờ đỏ búa liềm. Ai nấy đều mặc quần áo đẹp để đến thăm nhau. Trẻ con được nhận tiền mừng tuổi. Ở các bản có đông người gốc Việt như Na Pê thì còn tổ chức dựng cây nêu, cây đu ở bãi đất trống hay tập hợp người vui uống rượu cần, múa sạp, chơi ném còn hoặc múa lăm vông.

Đã sâu rễ, bền gốc trên quê hương mới, được nhân dân các bộ tộc Lào cưu mang, giúp đỡ, nhưng những người Lào gốc Việt như: Vi Văn Ma Son, Nguyễn Khắt, Nguyễn Thạch, Vi Văn Tít, Dông Nụ… sống dọc dải đất biên giới vẫn nặng lòng hướng về triền Đông chang chang nắng đốt. Ở đó, cha ông họ hay chính bản thân họ đã được mẹ chôn cuống nhau xuống đất ấm để nhắc nhở trong mình vẫn đang chảy một dòng máu Việt Nam.

Thượng tá Nguyễn Ngọc Lợi - Chính trị viên Đồn Biên phòng cửa khẩu Cầu Treo cho biết: Trải qua bao năm tháng khó khăn cơ cực, hôm nay cuộc sống, sinh hoạt của những người Lào gốc Việt đã có nhiều đổi thay, với những gam màu tươi sáng. Và mỗi khi chẳng may bị ốm đau, bệnh tật, họ thường đến trạm quân y Thoọng Pẹ để được khám, chữa bệnh, tư vấn chăm sóc sức khỏe. Bà con thực sự là sợi dây kết nối tình đoàn kết giữa nhân dân các bộ tộc Lào và nhân dân Việt Nam sống hai bên biên giới, đồng thời cũng là tai mắt cho Bộ đội Biên phòng và Công an Việt Nam trong việc nắm bắt mọi diễn biến trên khu vực biên giới, cung cấp thông tin về các đường dây tội phạm buôn bán ma túy và hàng lậu từ Lào về Việt Nam.

Với những đóng góp hết sức tích cực của bà con trong việc xây dựng, củng cố cơ sở chính trị khu vực vùng biên, nên về phía Đồn luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi để những người Lào gốc Việt qua lại thăm thân, nhằm thắt chặt tình đoàn kết, gắn bó ngày thêm bền vững.

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast