Khí chất tâm hồn người Hà Tĩnh với nhân cách văn hóa Nguyễn Du

(Baohatinh.vn) - Ông là sự kết tinh của văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Kinh Bắc với văn hóa Tràng An để rồi hòa nhập vào văn hóa thế giới với khuôn mặt không thể trộn lẫn. Với những tác phẩm chất chứa tinh thần nhân đạo, ngòi bút đầy rung cảm và tài năng văn chương lỗi lạc, Nguyễn Du đã làm đẹp thêm văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Việt Nam, đúng như Giáo sư Vũ Khiêu đã viết: “Nguyễn Du là hiện tượng từ trước đến nay chưa từng có, nay chưa có và mai sau chắc gì đã có”.

Hướng tới kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du (1765-2015)

Đất anh hùng, đất thi nhân

Nói đến Hà Tĩnh là nói đến vùng đất cổ, xứ biên viễn trong một thời kỳ dài của lịch sử đất nước. Mảnh đất này tuy nhỏ bé ở phương nam nhưng lại là vùng căn cứ vững chắc cho các cuộc khởi nghĩa Lê Lợi chống quân Minh, là nơi cung cấp hiền tài và vật lực cho đoàn quân Quang Trung ra Bắc đánh quân Thanh, nơi vua Hàm Nghi nương náu ban chiếu Cần vương… Cái tính chất của vùng biên trấn cộng với khí hậu khắc nghiệt của vùng đất nằm giữa 3 dãy núi lớn: Trường Sơn, Hồng Lĩnh, Hoành Sơn, phía trước là biển Đông khiến con người nơi đây phải căng mình chống chọi với thiên nhiên, bảo vệ lãnh thổ, duy trì cuộc sống.

Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh: Q.K

Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du. Ảnh: Q.K

Từ khi những cư dân cổ Việt Thường về sinh sống trên mảnh đất này, trong họ đã hình thành tinh thần yêu nước nồng nàn, chí kiên trung, bất khuất trước kẻ thù, một lòng phò vua giúp nước. Đây là nơi dừng chân thưởng ngoạn và là nơi che chở cho nhiều đoàn của nhà vua và triều đình. Nhiều ông vua đã để lại dấu tích trên vùng đất này. Người được nhân dân Hà Tĩnh lập đền thờ nhiều nhất là Lý Nhật Quang và Tô Hiến Thành, Đức Thánh Trần (Trần Hưng Đạo), công chúa Liễu Hạnh. Bên cạnh đó là quan Hoàng Mười, Chiêu Trưng Đại vương Lê Khôi, Chế Thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu, vua Hàm Nghi…

Không ít những người con của đất này với khát vọng giữ gìn đất nước đã đứng lên chống giặc ngoại xâm. Đó là Mai Thúc Loan chân đất, áo vải xưng đế, là Đặng Tất, Đặng Dung, Nguyễn Biểu phò vua đánh giặc Minh với bản lĩnh “chết vinh hơn sống nhục”. Và biết bao anh hùng, nghĩa sĩ khác như Đô đài Ngự sử Bùi Cầm Hổ, Đình nguyên Tiến sĩ Phan Đình Phùng, nhà yêu nước Nguyễn Hàng Chi, Trịnh Khắc Lập, Mai Lão Bạng, Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập, anh hùng Lý Tự Trọng.

Là vùng biên trấn phương nam xa xôi, tưởng như cuộc sống của người dân cũng chỉ lầm lũi trên vạt lúa, vồng khoai mỗi ngày và ánh sáng văn hóa của Tràng An, Kinh Bắc khó có thể lan tỏa tới nơi này. Nhưng kỳ lạ thay, nơi vùng đất khô cằn và đầy gió bão, “mưa thối đất, nắng đỏ trời” cũng chính là nơi con người hiền hòa và giàu có về tâm hồn, sống khoáng đạt, lạc quan, thiết tha yêu quê hương, đoàn kết, nhân ái, vị tha và vô cùng sâu sắc. Ca dao, dân ca, tục ngữ và đặc biệt là dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh đã chứng minh rất rõ điều đó. Đây là quê hương của các điệu hát ví phường vải, ví đò đưa sông Lam, sông La, ví phường nón, hát giặm, ca trù, hò chèo cạn, hát sắc bùa…

Đất sao người vậy. Đây là nơi sản sinh nhiều thi nhân hiến dâng tài năng, tâm huyết cho nền văn hiến Việt Nam, tiêu biểu là đại gia đình Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Hổ lập thư viện, mở trường dạy học, viết văn, đi sứ cho nhà vua… Từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XX, đất nước nở rộ nhiều tài năng và mảnh đất này cũng đã dâng cho đất nước nhiều dòng họ văn chương, khoa bảng như: họ Trần, họ Phan ở Tùng Ảnh, họ Lê ở Trung Lễ, họ Hoàng Xuân ở Đức Nhân (Đức Thọ); họ Phan Huy ở Thạch Châu (Lộc Hà)… Nổi danh là Đại thi hào Nguyễn Du và dòng họ Nguyễn Tiên Điền (Nghi Xuân). Ông là sự kết tinh của văn hóa Hà Tĩnh, văn hóa Kinh Bắc với văn hóa Tràng An để rồi hòa nhập vào văn hóa thế giới với khuôn mặt không thể trộn lẫn. Với những tác phẩm chất chứa tinh thần nhân đạo, ngòi bút đầy rung cảm và tài năng văn chương lỗi lạc, Nguyễn Du đã làm đẹp thêm văn hóa Việt Nam, đúng như Giáo sư Vũ Khiêu đã viết: “Nguyễn Du là hiện tượng từ trước đến nay chưa từng có, nay chưa có và mai sau chắc gì đã có”.

Nhân cách văn hóa Nguyễn Du

Nguyễn Du, tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, sinh năm 1765 tại phường Bích Câu - Thăng Long, nơi Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm, cha ông làm quan. Mãi đến năm 6 tuổi (1771), ông mới trở về quê hương Tiên Điền. Năm ông trở về, bến Giang Đình nhộn nhịp ngựa xe, áo quần, võng lọng. Kỷ niệm ấy đã khắc sâu trong tâm hồn thơ trẻ, theo ông suốt cuộc đời. Trong những năm tháng tràn trề tuổi thanh xuân, nhất là sau 10 năm gió bụi nương nhờ ở quê vợ Thái Bình, quê hương Hà Tĩnh, nơi có 99 đỉnh non Hồng hùng vĩ, có con sông Rum (sông Lam) hiền hòa, trong xanh đã dang rộng vòng tay đón người con lưu lạc. Những năm tháng này đã in dấu trong tâm hồn ông những xúc cảm khó phai mờ.

Đường về Tiên Điền. Ảnh: K.H

Đường về Tiên Điền. Ảnh: K.H

Giang Đình hữu cảm, Tạp thi là những bài thơ ông viết với tất cả hoài niệm, tình yêu, nỗi xót xa, đau đáu của người con sớm biết mình nặng nợ với quê hương. "Thác lời trai phường nón Tiên Điền gửi các cô gái phường vải Trường Lưu" và Văn tế Trường Lưu nhị nữ cùng với 2 biệt hiệu ông tự đặt cho mình: “Nam Hải điếu đồ” (câu cá ở biển Nam) và “Hồng Sơn liệp bộ”(đi săn trên núi Hồng Lĩnh) đã phản ánh rất rõ những tháng ngày gắn bó với quê hương Hà Tĩnh, không chỉ là Nghi Xuân. Nơi đây, thiên nhiên hoang sơ khoáng đạt với đồng bãi, bến sông, hoa cỏ, núi non… đã mang lại cho ông những khoảnh khắc đẹp của cuộc đời. Lam Thủy, Hồng sơn vô hạn thắng! (Núi Hồng, sông Lam cảnh đẹp vô cùng!).

Ông đã từng thốt lên như vậy. Nếu đọc kỹ thân thế và sự nghiệp của ông thì có thể thấy, dù ông từng sống ở kinh đô Thăng Long, kinh thành Huế, Thái Bình hay trên dặm đường đi sứ Trung Quốc nhưng cảnh sắc dân dã mà tươi nguyên, nên thơ và hùng vĩ với lời ăn tiếng nói của người dân “một nắng, hai sương” ở Hà Tĩnh đã ảnh hưởng nhiều nhất đến cuộc đời cũng như văn chương của ông. Cả không gian khoáng đạt của vùng cát trắng Xuân Tiên, Xuân Mỹ, Xuân Thành… nhìn từ non Hồng không thể không lưu ảnh vào tâm hồn đầy xúc cảm của nhà thơ:

Bốn bề bát ngát xa trông

Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia

(Truyện Kiều)

Trong những lần xuôi thuyền về Cửa Hội, ngắm nhìn cảnh sông nước về chiều với "Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa", chắc chắn tâm hồn đã cảm nhận rõ rệt hơn nỗi buồn nhân gian, nỗi đau biệt ly để rồi trái tim nhân đạo vĩ đại đã thôi thúc ông chuyển thể thành lục bát một cách tài tình những câu thơ đầy tâm cảm từ Kim Vân Kiều truyện:

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu

Buồn trông nội cỏ dầu dầu

Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Mỗi lần qua lại cây cầu nhỏ trước Khu lưu niệm Đại thi hào, nhìn sang bến Giang Đình và dòng sông Lam cuộn chảy, tôi lại chạnh nhớ đến câu thơ như một nét vẽ của người họa sĩ tài hoa:

Nao nao dòng nước uốn quanh

Nhịp cầu nho nhỏ dưới ghềnh bắc ngang.

Là người Hà Tĩnh, ai cũng dễ dàng nhận ra nhịp điệu của lời ca phường vải Trường Lưu - Can Lộc, chất giọng ví đò đưa sông Lam trong những câu thơ lung linh như ngọc của Truyện Kiều:

“Vầng trăng ai xẻ làm đôi

Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm trường”,

“Người lên ngựa, kẻ chia bào

Rừng phong thu đã nhuốm màu quan san”…

Nghi Xuân nói riêng, Hà Tĩnh nói chung từ xa xưa đã là đất địa linh, nhân kiệt. Dòng họ Nguyễn Tiên Điền từng là dòng họ “trâm anh thế phiệt” với nhiều tiến sĩ, danh nhân khoa bảng. Trong huyết mạch của người thi sĩ từng được vua phong là “nhất đại tài hoa” ấy có dòng máu của tài năng và phẩm giá mà cha ông để lại, đồng thời, được bồi đắp thêm bởi trái tim nhân hậu vô bờ bến của người trí thức luôn đau nỗi đau của nhân loại và khát khao mãnh liệt tự do, công lý:

Đau đớn thay phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung!

Ông từng khóc cho mình:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như.

Chưa đến ba trăm năm, nhưng hôm nay, sau 250 năm ông sinh ra trên cõi nhân gian lắm khổ đau và nhiều hạnh phúc, nhân dân Hà Tĩnh và nhân dân cả nước đã cùng nhân loại hướng về ông, hướng về vầng ánh sáng tỏa ra từ hàng trăm năm trước và sẽ còn rạng soi đến mai sau. Chuẩn bị kỷ niệm 250 năm sinh và đón nhận danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du, mỗi người con Hà Tĩnh đang thắp sáng thêm ngọn lửa tài năng và lòng bác ái từ ông để tỏa sáng cho muôn đời.

Nguyễn Du tự hào về núi Hồng, sông Lam, miền quê sơn thủy hữu tình tích tụ khí thiêng bao đời. Hồn núi, hồn sông, hồn cỏ cây, hoa lá phả vào áng thơ văn của ông. Và chính nhân cách văn hóa lớn của ông đã làm lung linh, cao đẹp thêm hồn cốt quê hương. Nhà thơ Xuân Hoài từng viết: Núi cao cho dáng đứng, sông dài cho bước đi. Quê hương đã tạo nên vóc dáng của một danh nhân văn hóa - Đại thi hào Nguyễn Du và chính Tố Như đã làm cao thêm vóc dáng của vùng quê núi Hồng, sông Lam. Qua mọi biến thiên của đất trời, núi sông vẫn vững bền, vẫn ghi dấu tình yêu của Nguyễn Du với thiên nhiên, con người và tình yêu của người Hà Tĩnh nói riêng, người dân đất Việt nói chung dành cho Đại thi hào.

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast