HOA LÁC BẸ MÀU TÍM

Cuối cùng thì anh cũng tự bằng lòng với nơi ở đã chọn được qua mấy ngày hỏi dò thuê mướn. Người cho anh mướn nhà cũng trạc tuổi anh, cũng độc thân và bí hiểm như ngôi nhà nửa lều nửa quán của anh ta...

Truyện ngắn của Trần Đắc Túc

Hai gian nhà lợp ngói đỏ chót, cột kèo bằng tre, bốn phía quây bằng đất nện, nằm sát nhà xác bệnh viện tỉnh, từ xa nhìn, hệt anh chàng mặc áo vét quần cộc. Sát đầu hồi là một con ngòi, nước đen ngòm chảy ra từ phía những người mặc áo choàng trắng. Một gian được cơi thêm tấm phên nứa to vừa làm giàn che nắng, vừa làm nơi trông, rửa xe đạp, xe máy. Gian thứ hai được nống dài ra dùng làm bếp, và tắm rửa giặt giũ. Anh được ông chủ cho ở phía sau với cái giá "cứ ở thử, trả được bao nhiêu thì trả". Anh mừng quá, nhưng lại hơi chợn chợn. Để chắc chắn, anh còn lòng vòng ở cái thị xã nhỏ bé heo hút này hỏi dò. Không biết được gì nhiều ngoài cái tên của ông chủ là Ngoãn, còn gọi là Ngoãn râu vừa nuôi vợ vừa trông nhà xác. Người đàn bà bán vé số trước cổng bệnh viện còn cho anh biết thêm "Ngoãn râu hâm tỷ độ". Thây kệ, ở với người hâm có khi lại tốt.

Anh quả quyết xách ba lô, lách qua mấy chiếc xe đạp, xe máy để lộn xộn dưới giàn che nắng, thả phịch mông xuống mặt chiếc hòm gỗ đựng đồ lề xe đã nhẵn lỳ dầu mỡ. Cái miệng râu ria hỏi:

- Ông tên chi?

- Tre !

- Tên lạ rứa?

....

- Có định ở đây lâu không?

- Cũng chưa biết...

Khuôn mặt đầy râu quay đi, chỉ tay xuống chiếc chõng tre kê phía sau. Anh nhìn theo, lấy làm mừng vì thủ tục nhập cư khá đơn giản, không phải trả lời các câu lục vấn, đại loại quê ở đâu, vào đây làm gì?... Lại mừng hơn khi nhìn thấy chiếc chõng Ngoãn cho anh ngủ được kê cạnh cửa sổ. Qua những chấn song bằng tre chẻ, vót nhẵn lì, anh có thể sang lối vào bệnh viện như ngồi trong bót gác. Không còn mong có được nơi tốt hơn, anh thở phào rồi thả soài người xuống mặt chõng, mặc Ngoãn râu lúi húi ở gian ngoài. Đã lâu anh mới thấy nhẹ mình đến thế.

Anh quê ở xứ đạo ngoài Bắc, một tháng tuổi mẹ gửi anh để vào với nước Chúa phía Nam. Nhà thờ không làm phép cưới cho con chiên lấy người ngoại đạo. Lại không ai có thể tha thứ cho phút giây buông thả. Mẹ lén lút sinh anh ở nhà thương làm phúc rồi gửi người họ xa nuôi hộ. Bố cũng không dám lộ mặt cho tới ngày người bà con nhắn ông xuống. Bố đón anh trên tay với quyết tâm không được phép cũng cưới. Nhưng mẹ thiếu can đảm đã lên tàu Hải Phòng kịp chuyến cuối vào Nam. Bố vốn ít lời nhưng hễ tới khi bồng anh đi bú chực cứ lẩm bẩm luôn mồm. Chẳng biết ông lẩm bẩm những gì, với ai. Bố đặt tên là Tre, Trần Văn Tre. Tre lớn vỗng lên, tựa hồ sữa thập phương đã góp cho anh sức của nhiều người. Vồng ngực nở cứ như cái mâm đồng, những gióng tay, gióng chân xoắn căng từng múi thịt. Gái làng khối cô mê anh. Nhưng phải cái, anh ít nói quá thể. Có phải anh khinh người không thì đố ai biết. Chỉ thấy anh già hơn khối chàng cùng lứa. Cứ ngỡ thời măng tơ của anh đã trốn biệt tăm tích. Tre lộc ngộc hệt cây cụt ngọn.

''.... Răng ông lại tên Tre? Răng không đặt là Giang là Nứa, là Vầu? Tre... tre... thêm dấu hỏi vào có phải hay hơn không?!".

Viên giám đốc xí nghiệp sản xuất phụ tùng ô tô nơi anh làm bảo vệ đang cao hứng vì men rượu, mặt đỏ phừng phừng cứ cười cười mà đay đi đay lại. Hễ lần nào xí nghiệp liên hoan, có dịp cụng ly là thế nào Giám đốc cũng nhè cái tên cúng cơm của anh mà răng răng rứa rứa mãi. Lão này giống cha đại đội trưởng đặc công của anh, cứ mỗi lần đánh trận trở về, thế nào cũng ôm chặt lấy anh, riết lấy riết để mà xuýt xoa "Tre rứa mới là Tre chứ".

Tên anh đã trở thành đầu để trong nhiều buổi nhậu, nhiều câu chuyện tiếu lâm của đại đội. Anh không lấy làm điều, lắm khi còn hăng hái cười theo. Ấy vậy mà đến tay Giám đốc này thì anh khó chịu ra mặt mỗi khi tên mình bị đưa ra đàm tiếu. Tre uống cạn chén rượu vừa cụng với Giám đốc, mặt không biến sắc, nuốt luôn cả câu trả lời. Chỉ có Tháo, đội phó bảo vệ, đồng hương Giám đốc là hùa hớt:

- Báo cáo anh, tên đẹp đấy chứ. Tre đực thì hết chê. Bọn trộm cắp mà bị một cú gậy tre đặc ruột thì cứ gọi là bỏ bổ.

Tháo rót một chén rượu đưa cho anh: "Uống đi, mấy khi Giám đốc chiêu đãi"... Tre không nói, lẳng lặng cầm chén ngửa cổ dốc tuột. Tháo lại rót một chén nữa, anh chưa kịp chối thì có người vỗ vào vai nặng trịch: "Nì, uống thì cứ uống nhưng lo mà giữ trộm. Muốn Tre muốn Giang chi cũng được, nhưng việc không tròn thì Tre đực cũng cứ phải chẻ"!.

Viên Giám đốc nói giọng khu Tư đặc sệt, ghé sát tai anh riết róng. Da cổ anh nhồn nhột, giống như lúc bé ngủ ngoài đồng bị bò liếm mặt. Tre không nhìn trả, lẳng lặng đặt chén xuống, về thẳng. Chén rượu Tháo rót còn nguyên, một con ruồi sa xuống, nổi lêu bều. Tháo nhìn hút theo: "Hê, Tre đực không uống hết. Ruồi sa chén đây này, có lộc, có lộc..."

Tre vào phòng, đang tháo giày thì Tháo vào theo. Tay xách chai, miệng dẻo quẹo: "Uống tiếp, kệ Giám đốc, họ uống nhiều chứ ta được bao nhiêu". Cơn giận trong đầu anh chợt bùng lên. Làm đội trưởng bảo vệ được ba năm đã gồng lên, chịu ít ăn, ít uống, ít ngủ. Luôn luôn cứ phải canh chừng. Mà sao cái xí nghiệp này trộm cắp lại lắm quá thế. Tháng nào cũng có vụ mất trộm, tuần nào cũng có vụ mất trộm. Khi qủa nén, khi xăng dầu, nhưng nguy hại nhất là mất Niken, thứ phụ gia làm quả nén. Loại nguyên liệu nhập ngoại này ngoài thị trường tự do đắt lắm, bởi mấy ông chủ hoá mạ mua với giá chóng mặt. Một miếng bằng bàn tay cho vào túi áo lông, qua cổng, đẩy cho dãy hàng ăn là đã bằng lương tháng của anh. Tre đau đầu, không tài nào rình được hết, không sao biết được trong dãy dài công nhân tan tầm, anh ả nào dấu Niken trong áo. Ngày còn ở lính, anh khoẻ re. Giặc thì rõ rồi, gặp là đánh, ta với giặc cứ rạch ròi như ngày với đêm. Đằng này thật giả lẫn lộn, chẳng biết ai là bụt, ai là ma. Tre còn nhớ tay Ngàn đốc công xưởng đúc, mấy năm chiến sỹ thi đua, cả ngành cơ khí đang phát động phong trào học tập gương sáng Lê Văn Ngàn, đùng một cái, Công an kinh tế thủ đô đi xe ba bánh về còng tay số tám đưa vào Hoả lò. Hoá ra hắn là trùm trộm Nhôm, Nike, đám tay chân còn có một gã lái xe con cho Giám đốc, ba ả kế toán thủ quỹ kho vật tư. Hú vía! May sao xí nghiệp còn chưa xây dựng hắn thành Anh hùng lao động. Rồi đến vụ con trai ông Giám đốc cũ, đi lao động xuất khẩu ở Liên Xô về mới vào cơ quan cũng bị Công an bắt vì đã thông đồng với thủ kho, sửa hoá đơn lấy Niken bán cho lò mạ kền tư phố Huế. Riêng Tre cũng đã tự mình bắt được hàng chục vụ, khi thì mấy chị chàng xe phôi giấu dưới thùng vài quả nén, khi thì vài tay thợ tiện giắt cạp quần ít mảnh hợp kim. Đa phần, nếu chỉ có mỗi mình trong phiên trực thì anh đều chỉ bắt họ trả lại mà không lập biên bản. Bữa nào có thêm Tháo hoặc ai đó, anh mới phải đụng đến giấy tờ. Trộm cắp vặt xẩy ra hàng ngày, đội bảo vệ của Tre cứ bị kiểm điểm lên xuống.

Khi ông Giám đốc già hạ cánh, ông trẻ người khu Tư thay thế. Ông Hai tám tám (cánh công nhân cứ kháo thế về nghị định giao quyền cho ông) hắc xì dầu chính hiệu, một cách chức, hai đuổi việc, không bộ tứ, bộ ngũ gì hết ráo. Tre đã bị doạ chẻ đến mấy lần. Anh tức lắm. Ừ thì làm không xong, không tròn bị đuổi cũng đành một nhẻ. Đằng này anh cứ phải sục suốt ngày đêm, bất kể nắng mưa, nửa đêm, tròn bóng, hễ có động là anh em lại dựng Tre dậy. Chính phòng ở như cái bốt canh đã là nơi giam tre cả ngày lễ, chủ nhật. Vậy mà tay Giám đốc cỡ tuổi em Tre hễ cứ mở miệng là giảm biên, là thôi việc. Anh cố nhịn. Ôi dào, đạn bom chiến trường còn chả ngán thì há gì những chuyện vụn ở đây. Anh chỉ tự tự tức mình không hiểu sao nhiều vụ đã chủ động giăng bẩy, đợi lũ trộm hành sự là tóm, nhưng chúng vẫn thoát. Có bận Tre phát hiện ai đó giấu Niken dưới đống phoi xưởng Tiện. Anh bàn với Tháo kế hoạch mai phục. Tre cầm chắc sẽ bắt được kẻ gian, nhưng rồi bằng cách nào đó bọn trộm cũng lấy được đồ ăn cắp mang đi. Anh tức đến nghẹt thở, không dám hở chuyện với ai. Chỉ có Tháo là biết cảm thông. Chai rượu Tháo mang đến lúc này làm đầy thêm những ấm ức trong anh. Tre tặc lưỡi. Uống. Ông Hai tám tám cũng đã xây nhà tầng ở xí nghiệp, mua được nhà riêng ở Hà nội, còn anh với Tháo đây là lũ tốt đen; được mất là cái quái gì.

Khi anh tỉnh dậy, đồng hồ đã chỉ 3 giờ sáng, quá phiên trực bốn tiếng đồng hồ. Tre vội vã lắp pin vào đèn, không kịp buộc quai dày cứ hướng kho vật tư mà quáng quàng chạy tới. Dãy đèn cao áp ở đường trục không sáng, nhưng đèn trong ba phân xưởng tạo phôi còn đỏ. Phía xởng đúc, lác đác bóng thợ đốt lò đến sớm để chuẩn bị phôi cho ca ngày. Tiếng quạt gió ù ù như xay lúa. Đèn cổng chính vẫn sáng, bóng mấy người đi lại ở phòng trực làm anh yên tâm. Cứ theo bóng bức tường phía sau Tre tiến lại kho vật tư nơi mình đặc trách nhận phần bảo vệ. Chợt anh giật thót người. Tấm cửa sắt cổng sau đã mở một lối vừa đủ rộng đểc chiếc xe ba gác lọt qua. Tre lập cập sờ vào túi mình. Dây đeo chùm chìa khoá vẫn dình chặt vào thắt lưng càng làm anh hốt hoảng. Tiến thêm vài bước, bằng một động tác gọn, một tay kéo cửa sắt đóng lại, một tay với bật công tắc. Dãy đèn kho bật sáng. Không có ai. Bước thêm vài bước, anh khựng lại như bị chôn chân, tay dùi mắt liên tục. Hai tấn rưỡi Niken vừa nhập kho hom kia giờ đã không cánh mà bay. Gian kho trống trênh rợn người. Không còn hồn vía nào kiểm tra các thứ khác anh vọt ra ngoài. Những dãy nhà xưởng lợp tôn xám với vô vàn ô kính cứ bình thản chọc vào mắt. Tiếng quạt gió u u từ xa nghe như âm phủ vọng đến.

Trong phòng trực, kíp bảo vệ đêm đủ mặt. Không thấy đội phó Tháo ở đâu. Tre hối hả ra lệnh cho anh em tản đi các hướng, còn mình ra dãy quán ăn trước bến xe. Chợt anh thấy lạnh lưng. Giám đốc đã đến sau từ bao giờ, chắc đã biết vụ mất trộm. Tre luống cuống tường trình lại sự việc. Viên Giám đốc mặt tái đi, rồi đỏ lựng như say rượu, không nói một lời, rảo bước lên phòng. Tre lẽo đẽo theo sau. Giám đốc không thèm nhìn. Tre cúi mặt thổi bụi ở ghế, nói xuống đất: "Anh đi làm việc với công an phường. Không phải báo cáo nữa". Rồi khoát tay xua ra.

Liên tiếp mấy ngày sau đó, anh phải ngồi ở phường viết tường trình. Tờ khai nào cũng không đạt yêu cầu. Không ai chấp nhận cho anh việc vắng mặt vì quá chén. Tre phát khùng, xé tờ giấy tường trình cuối cùng trước mặt tay công an kinh tế trạc tuổi cháu. Chiều đó, người ta còng tay anh cùng với Tháo về trại tạm giam để chờ điều tra. Một tuần sau, Tháo được tha, còn anh đã phải ở trại đến gần bốn tháng. Ra trại, Tre được biết công an không tìm được chứng cớ phạm tội ở anh, còn xí nghiệp thì thừa đủ thời gian để giám đốc thải hồi viên đội trưởng vi phạm kỷ luật lao động. Nhặt nhạnh trong phòng ở những đồ dùng thời lính còn sót lại, anh ra khỏi xí nghiệp với tâm trạng rối bời. Về quê thì không ổn rồi, hồi còn sống bố Tre hy vọng ở anh những điều tốt đẹp. Tre tha thẩn, loanh quanh mất một ngày mới nhận lời về ăn tối với Na, một ả lao công làm nghề đổ phoi đã có lần ăn cắp nhôm, anh bắt trả mà không lập biên bản. Bữa cơm rượu đã ân nhân đã đến độ dài làm chín nẫu khuôn mặt lấm chấm tàn nhang của Na. Na thì thào với anh mọi chuyện. Rằng lâu nay mọi người đều nghi Tre thông đồng với bọn trộm. Rằng lão Hai tám tám muốn sa thải từ lâu nhưng chỉ ngại anh là đặc công. Cặp vú dài thõng cứ quệt qua quệt lại trên vai, trên lưng anh nặng nặng. Đầu óc Tre căng ra, nhoẹt nhoè khuôn mặt Tháo. Thằng khốn đã bỏ về quê. Thằng phản bạn lừa thầy lâu nay anh hết lòng tin tưởng đã bán bạn lấy mấy chục cây vàng. Giọng Na cứ lào thào bên tai, còn tay thì sục sạo trên người anh. Nhưng Tre cứ nguội ngắt như khối đá. Từ thẳm sâu trong tim óc, trong li ti huyết quản lời thề của anh cứ vang lên. Không tìm ra thằng phản bội thì không phải là anh, là Tre. Cái tên bố đặt cho không chỉ để mà đùa.

Suốt đêm anh thức trắng, không hề chợp mắt lấy một giây, sáng rõ mặt người là soạn xong hành lý. Na đưa thêm cho một khoản tiền đi đường gói trong một chiếc khăn thêu màu tím với tràng dài câu xin lỗi. Tre lúng búng nào Na có lỗi gì đâu, với lại anh đang nợ Na là đằng khác. Khoản tiền, tất nhiên anh sẽ trả, lại còn... Lần đầu tiên trong đời, Tre trịnh trọng hứa thành lời. Cũng là lần đầu tiên anh đang giăng bẫy để sập một con mồi mà mình đã biết rõ hình dung. Cả đêm qua, anh đã vạch xong kế hoạch. Phải, bệnh viện là nơi mà mỗi con người trong đời một lần đều phải đến. Cái thằng phản bạn cũng chẳng thoát được quy luật này đâu.

Ngày đầu tiên ở nhà Ngoãn râu là một ngày son với anh. Mới sáng ra mà mặt trời đã rọi khắp nhà, tươi rói. Giàn che nắng nhẹ tênh, cao hơn, gió từ biển thoang thoảng từng cơn dấp dính phên nứa. Tre đã dậy từ lâu song chưa muốn khoác lên mình tấm áo lính sờn bạc. Tre để trần, xoay mình bốn phía như hong gió. Ngoãn đưa cặp mắt thán phục lướt trên những bắp thịt cuồn cuộn ở ngực, ở lưng anh rồi dán chặt vào lườn người khách trọ. ở đó, những búi cơ của Tre gồ lên như vú chuông đồng. Đợi anh mặc xong áo quần, Ngoãn mới đẩy xe đạp ra ngoài đường, sau khi đã để lại đầy đủ dụng cụ hành nghề. Tre muốn nói một câu gì đó để biểu lộ lòng cảm ơn về sự tin cậy của người chủ trọ, nhưng Ngoãn đã lạnh bơ mà đi ra.

Đầu buổi, có hai khách sửa xe đạp, anh được trả công năm ngàn. Tiếp đó là khách gửi xe máy. Lai rai như thế, ngày công đầu tiên cũng không đến nỗi nào. Nhọ mặt người, Ngoãn mới về. Tre đưa số tiền kiếm được, Ngoãn không nhận, lầu bầu những điều gì đó, anh nghe không ra, chỉ rõ một câu rằng trông xe máy phải cẩn thận, mất là chết. Chưa tàn chuyện Ngoãn đã lại xắm nắm xách túi đi. Tre nghe câu được câu chăng, trong đầu còn rộ lên sự thanh thản. Cứ đà này còn trụ lại đất này được lâu, đến cái ngày con mồi phải đút cổ vào lưới mà anh đã giăng trên bãi đời. Hắn sẽ phải giãy dụa trong tay Tre. Giết hắn; không anh không làm điều đó. Tre vốn ghét sự chết chóc. Ở lính mười lăm năm anh đã biết thế nào là cái chết, chán ngán rồi. Những thằng Mỹ, thằng Nam Hàn to cộ anh đã từng bóp ngoéo trong thế võ của mình, nhưng với thằng nguỵ nhỏ thó, thì thực lòng Tre không muốn giết, dẫu biết rằng không giết nó thì nó sẵn sàng giết anh. Chả thế mà trong những trận đánh với lũ Mỹ, lũ chư hầu, Tre luôn luôn là người được biểu dương ... Còn với nguỵ quân, ở trong anh thường xuất hiện ý nghĩ khinh thường không đếm xỉa. Tre không nói ra mồm nhưng có lẽ anh đã có ý tự cao. Điều đó không tốt, điều đó cản trở đường binh nghiệp của Tre. Hồi còn ở đoàn huấn luyện đặc biệt, ròng rã hàng năm anh đã háo hức nhập tâm từng thế võ hiểm, nhưng khi thực hành báo cáo tốt nghiệp, Tre chỉ đạt điểm trung bình. Dường như trước mặt anh lúc đó không có đối thủ xứng tầm. Tre từng có ngầm ý khinh những ai chưa bơi qua mười cây số trên biển quê, chưa cày hết ba sào ruộng trước khi mặt trời mọc với con trâu đực sừng cui lực lưỡng, khi tháo ách ra lê không nổi qua bờ. Ở lính, anh khinh những kẻ hèn không đáng tầm vậy mà khoe mẽ tâng công. Khi về xí nghiệp, anh khinh bọn ăn cắp vặt, khinh tay Giám đốc trẻ Hai tám tám mặt non choẹt ở đâu nhảy về mà làm như ông tướng... Tre khinh hắn, cái thằng Tháo làm phó cho anh mà luôn khúm núm rụt rè. Tre tin rằng mình khoẻ, chẳng sợ ai, sợ gì. Tre không nói ra mồm nên không ai biết, anh cũng có tính cao ngạo, coi thường người khác. Khi xuất ngũ, chẳng có thêm được đặc ân, anh coi là sự thường, làm bảo vệ không hoàn thành nhiệm vụ, bị bắt giam. Tre phục tùng. Nhưng tới khi ra tù, biết mình bị phản bội, anh giận đến sôi gan. Thằng Tháo mà dám khinh anh ư, chỉ nghĩ đến đó thôi là Tre thấy ngực mình sắp vỡ tung. Tre không chịu được sự phản bội, giống như bố từng phát nguyện sau ngày anh nhập ngũ để lên chùa: không thể sống chung loài bội ước. Tre thương bố, nhớ bố mà không biết được ông náu ở phương nào. Trong cơn khoái cảm của người đi đặt bẫy, anh bất giác bật thành lời: "Con sẽ bắt được thằng phản bội".

Liên tiếp nhiều ngày sau, mọi sự đều suôn sẻ, anh mừng lắm. Mỗi sáng Ngoãn vẫn đi làm đúng giờ, còn anh thì xa xẩn ngó chừng cổng bệnh viện rồi cóp nhóp, khi vá chiếc săm thủng, khi lơ đãng nghe chuyện mấy người nhà bệnh nhân. Riêng với người đàn bà bán vé số thì anh đã có phần thân quen. Cắp chiếc thúng với chiếc làn nhựa nhỏ đậy ở trên, sáng nào Lê (anh đã biết được tên người đàn bà) cũng đi qua ngõ với câu nửa chào nửa hỏi trống không. Lão hâm đi rồi à? Đã biết tỏng người ta đi rồi còn hỏi. Mấy bữa đầu, anh còn ngờ ngợ, sau hiểu ra. Ngoãn về là Lê lại đến. Lúc giành tích chè ủ nóng bỏng môi, lúc củ khoai luộc trong nồi đất cháy sém vỏ, Lê cười nói thởi lởi. Chẳng thấy gọi lão hâm. Những lúc ấy nhìn người đàn bà ngoài tuổi bốn mươi, khuôn mặt bầu bầu với lấm chấm tàn nhang anh thấy Lê giông giống Na. Cũng dễ coi, Ngoãn vẫn thế, làm bộ cảu nhảu lúc chỉ có Tre.

Dần dà, anh biết thêm cái người già cao lòng khòng mỗi chiều đến ngồi ở chõng ngoài với Ngoãn, lúc nào cũng cặp kè cút rượu trắng với dăm củ lạc rang là lão Hán đạp xích lô. Cái người đàn ông trạc tuổi sáu mươi mà tóc xoăn như rễ tre là lão Kiểu. Lão Kiểu đến chơi còn kéo theo dăm anh trẻ tuổi, đó là nhóm thợ xây. Rồi đến tốp thợ đấu người Hộ Độ, thi thoảng gửi lại nhà Ngoãn đến cả chục chiếc xe cút kít, nhìn giống hệt thứ đồ chơi của người lớn. Những lúc cư dân xóm sau nhà xác đến đầy đủ, thế nào Lê cũng xung phong nấu nước chè. Giống một bà chủ nhà, Lê ra vào tự nhiên, biết tìm cái ấm nhôm ở đâu, rút củi ở đâu xăng xái nhóm bếp. Trong đám khói dưới góc nhà, khuôn mặt tàn nhang hồng lên sáng loáng. Rồi như là ảo thuật, Lê rút ra đâu đó lúc từ trong hòm đồ nghề, lúc trên giại nắng mấy chiếc bánh đa kẹp kẹo lạc, ở đây họ gọi là kẹo cu Đơ. Trong câu chuyện rổn rảng của khách, của đám thợ đấu, thợ xây, Tre luôn được nghe đến một cái tên: Thị. Mấy tháng đầu, anh nghe chưa ra vì giọng nói của người ở đây nặng quá. Thị là câu đầu lưỡi của mấy người đến đây. Tuồng như Thị là chủ ngôi nhà này, là Ngoãn, là đứng quanh đâu đây, gần lắm. Những lúc nghe tỏ tường, Tre ngơ ngác ngó quanh, để tìm cho ra ai là Thị. Có thể sẽ dễ dàng biết được nếu lúc đó Tre ngồi lại nghe chuyện của đám đông, nhưng anh đã không làm vậy. Tre len lén lẩn ra ngoài đứng vào góc khuất để trông chừng nơi công viện. Việc chính của anh là chỗ đó, không được sao lãng phút giây.

Lão Hán là người đầu tiên phát hiện chỗ đứng của anh lão vỗ vai:

- Này cậu, buôn có bạn, bán có phường. Ta không buôn bán chi thì ta sống. Sống cũng cần có bầy đàn. Một mình sẽ đơn độc, độc thì dễ sinh ác. Cậu coi, lợn độc, voi độc, khái độc... ác lắm... Vô đây, vô đây. Vừa nói, lão kéo anh vào chõng rượu. Tre lúng túng giữa đám đông, giữa tiếng cười, tiếng lục khục của người nhai kẹo cu đơ, tiếng sì sụp uống nước chè tươi nóng. Trong đám đông sực lên mùi rượu, mùi mồ hôi, mùi nước chè xanh chín tới, anh gắng cười nói. Cũng bưng chén, cũng nhai kẹo nhưng vẫn không quên ngó chừng chung quanh. Một lần khi ấm chè đã trơ bã, lão Hán trịnh trọng ấn vai Ngoãn xuống chõng rồi nói chậm rãi: "Số chú không khổ đâu. Hết Thịt thì có Lê, muà nào thức ấy. Một mình chăm không bằng hai người, dứt khoát là không bằng ...". Lão nhấn mạnh hai chữ "không bằng" rồi cười to. Tre còn chưa hiểu ra sao thì lão nháy mắt ra hiệu về phía Lê, rồi lại nhìn vào Ngoãn. Khuôn mặt Ngoãn đỏ bừng, những chân râu như đội cao lên. Anh ngạc nhiên nhận ra, Ngoãn hãy còn trẻ lắm.

Sau lần lão Hán xích lô nói chuyện được dăm hôm, một chiều Lê hớt hả đến gặp Tre. "Ta đi sang viện một lúc, anh !

Lê sôi nổi kéo tay anh. Tre dứt ra rồi lạnh nhạt lắc đầu. Lê tròn mắt nhìn xoáy vào mặt anh rồi đột nhiên đổi giọng.

- Ông có lẽ là đá chứ không phải là người. Sao ông không hỏi tôi rằng sang viện để làm chi ? ít nhất ông cũng hỏi một câu chứ! Đằng này chỉ độ lắc với gật. Khen cho ông cũng sắt đá, vô đây gần nửa năm, ở trong nhà người ta mà không biết đến gia cảnh người ta, giỏi thật...

Tre há hốc mồm, kinh ngạc thât sự. Lê đang đon đả thế, đã lại gay gắt tuôn một tràng dài vào mặt anh, rồi ngỗi rũ xuống như tàu chuối héo.

Thực tình, lâu nay anh cũng chẳng để tâm đến chung quanh, anh chỉ nhăm nhăm với công việc hệ trọng của mình là đòi món nợ đời. Tre cũng ngỡ rằng chẳng ai để ý đến anh. Nay nghe cách nói của Lê thì dễ thường nhóm người ở xóm sau viện này đã chấp nhận anh là người cùng thuyền, cùng hội. Tuy vẫn còn chút lo lo, nhỡ đâu khi sang bên đó mà vô tình bị con mồi phát hiện thì công cốc, song nghe Lê nói vậy anh thay đổi thái độ: Nào đi!.

Không đợi anh cúi xuống nắm tay, Lê đã bật dậy như cái lò xo, mặt tươi hẳn lên. Lúc hai người đi qua rãnh nước phía đầm lầy, Lê cúi người ngắt một bó hoa lác thứ lác bẹ cao lút đầu người, mọc ở ruộng hoang, hoa màu tím.

- Hoa ni sống giỏi lắm, lên cạn cả tháng nỏ héo mô!''

Vừa chăm chú quan sát người qua kẻ lại trên đường vừa căng tai nghe Lê kể, thỉnh thoảng Tre lại bước sát bên người Lê. Hoá ra Thị là tên vợ Ngoãn, nằm viện đã nhiều năm. Bị tai nạn giao thông chấn thương nặng ở sọ não nay chỉ sống sinh vật. Sống sinh vật, điều này thì anh biết, ở lính, có người bị thương sống như thế nhiều năm. Không biết Thị đã mấy năm. Lê cứ kể rủi rải, anh nghe nhiều lúc không rõ, vẫn không tiện hỏi. Một tay cầm bó hoa lác, một tay Lê ôm eo anh như đôi tình nhân. Giữa bãi rộng vắng vẻ, anh nghe rõ hơn: "Mấy tuần nay Thị hay bị nghẹt thở, có thể sắp đi, lên cơn luôn, lại sốt nữa. Sao mà số ông Ngoãn khổ thế". Đang kể chợt Lê đứng lại, chỉ tay.

Từ lối nhà xác, Ngoãn đang lễ mễ xách một xô to đi về phía vòi nước.

"Một tuần nay ngày nào cũng cứ mặc quần áo mới rồi lại cởi ra..." Lê thì thào vào tai anh.

Anh thận trọng vén màn cúi sát xuống, giường... Một thân hình còm nhom như đứa trẻ lên mười với khuôn mặt không biết trai hay gái, già hay trẻ. Anh cố nhìn cho ra nét đàn bà trên khuôn mặt trắng bợt với vô số sẹo nổi thành bờ giữa loang lổ những vạt tóc còn sót lại. Thỉnh thoảng cái mồm chành ra và ngáp, đó là dấu hiệu còn sống. Anh thấy lạnh sống lưng ... Lê bình thản lục tìm trong chiếc giỏ nhựa lấy ra vài quả quýt bình thản bóc vỏ, rồi cứ thế đút vào mồm người ốm: - "Nào, ăn đi" vừa nói vừa đút không cần cái hình người có đồng ý hay không. Và cũng thật kỳ lạ, người ốm vẫn há mồm như chim nuốt từng múi quýt. Cái cổ cố duỗi dài ra, miệng vẫn nhai chóp chép. Từng chai ra khi nhìn xác chết, nhưng khi nhìn những động tác nhai nuốt của người nằm đó, anh thấy mắt mình cay xè.

- Mấy năm như thế rồi? Anh hỏi

- Mười năm, có lẽ hơn, em không nhớ chính xác. Chỉ biết hai người lấy nhau được hai năm, chưa có con thì vợ bị bọn đi xe đánh võng làm ngã ra đường. Anh Ngoãn nuôi được mấy năm, sau phải xin vào làm ở nhà xác mới chăm được vợ lâu năm mà được vào làm hợp đồng, rồi từ hợp đồng lâu năm mà bây giờ biên chế rồi... dài thật nhỉ?

....

- Vào tay anh thì có làm được như rứa không?

- Một mình nuôi vợ - vợ chết... cả họ hàng cũng chẳng giúp được gì, vì tuần nào cũng tưởng chết rồi. Quả thật là chết rồi. Thế mà còn sống. Có bận anh Ngoãn phải đi Chùa, xin cho vợ đi. Cũng không đi được. Hỏi thật anh nhá, có ai làm được như ông Ngoãn nhà tôi không?...

Tre lặng người.

Ba ngày sau, Thị đi thật. Trước đó có một trận mưa như thác đổ, cả Thị xã dầm trong nước. Không có

chiếc xe đạp, xe máy, xích lô nào có thể chuyển động được. Lúc Ngoãn tắm rửa cho vợ, anh một mình ra phố mua áo quan. Không có ai chở thuê, anh cởi áo lót vai, một mình vác chiếc áo quan đi phăm phăm trong mưa đổ. Mưa ném đá rào rào vào mặt anh, gõ vào mặt gỗ như trống trận. Dưới chân Tre nước trôi ào ào.

Khi hạ huyệt, trời bổng nhiên tạnh hẳn. Nắng tươi rói ngập tràn nghĩa địa. Phía sau đầm lầy, lác bẹ theo gió mà rướn lên những đợt sóng tím dập dềnh. Hai họ nội ngoại không có ai đến, chỉ có xóm thợ sau nhà xác. Lão Hán và lão Kiểu mặc nguyên áo ướt uống rượu với lạc rang. Lê cởi áo ngoài phủ lên tấm lưng trần của Tre, nơi vai vẫn còn rỉ máu. Bó hương cắm trên nóc mộ không bén lửa, còn nguyên. Một túm hoa lác bẹ của Lê, được cắm thay vào đó. Trong nắng, sắc hoa tím như lửa hàn.

Một thời gian dài, sau ngày Thị đi, anh không ngó gì đến cổng bệnh viện. Lê chuyển đến ở hẳn cùng Ngoãn ở gian ngoài. Chiếc hòm đựng đồ nghề sửa xe được thay kính để bỏ vé số. Anh cẩn thận bỏ vào đó một phần tiền nhờ những ngày ở đây mà có. Phần còn lại Tre gói vào chiếc khăn của Na tặng trước lúc đi vào.

Ngày Lê làm cơm cho Ngoãn để cúng vợ bốn chín ngày, Tre lặng lẽ ra bến xe.

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast