Điện Biên huyền thoại

(Baohatinh.vn) - Trở lại Điện Biên sau 10 năm với những đổi thay rõ rệt, tôi nghe trong lòng mình dâng lên những cảm xúc mới với mảnh đất đặc biệt này. Trong những tháng ngày lịch sử này, cảnh sắc núi rừng như cũng tươi mới, trẻ trung hơn. Màu xanh quân phục của những Đoàn Cựu chiến binh cũng xanh thắm hơn, trời Điện Biên mây trắng hơn và những tấm thổ cẩm của miền Tây Bắc cũng như đa sắc màu hơn.

Hướng tới kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ (7/5/1954-7/5/2014)

Từ đèo Pha - Đin đến Mường Phăng “Khu rừng Đại tướng”

Khi xe chúng tôi đến Đèo Pha – Đin ai cũng háo hức bởi câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ, đèo Lũng Lô anh hò chị hát”.

Đèo Pha Đin có độ dài 32km, là một trong tứ đại đèo vùng Tây Bắc. Pha – Đin có nguồn gốc từ từ Phạ Đin trong tiếng Thái: Phạ là trời, Đin là đất, là chỗ tiếp giáp giữa trời và đất. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ đèo Pha Đin là một trong huyết mạch quan trọng chuyển vũ khí đạn dược và lương thực với hơn 8 nghìn thanh niên xung phong mở đường tiếp viện. Khi giặc Pháp cho máy bay oanh tạc liên tục suốt 49 ngày đêm thì Đèo Pha Đin với ngã ba Cò Nòi (huyện Mai Sơn – Sơn La) hứng chịu bom đạn nhiều nhất. Xe dừng lại trên đỉnh đèo mù sương, tôi đứng ngẩn ngơ nhìn những khóm hoa hồng rực rỡ giữa lưng chừng đèo. 60 năm trước bao nhiêu người ngã xuống nơi này, máu của họ thấm vào đất này. Phải chăng vì thế mà những bồng hồng ở đây mang một sắc màu tươi thắm hơn…

Qua ngã ba Tuần Giáo chúng tôi rẽ vào Mường Phăng thăm lại bản doanh của Bộ Chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ. Mường Phăng bây giờ đã khác trước nhiều. Bản làng như được thay da đổi thịt bởi những nếp nhà sàn khang trang lợp ngói đỏ với những nét hoa văn chạm trổ cầu kỳ. Không khó để phân biệt các bản người Thái đen và Thái trắng bởi kiến trúc nhà sàn của họ rất khác nhau. Nhà sàn Thái đen không có hàng lan can như nhà của người Thái trắng nhưng hai hồi lại có hoạ tiết Khau cút rất thơ mộng… Khu du lịch Mường Phăng bày bán rất nhiều hàng lưu niệm, trong đó nhiều nhất là những bộ sách, đĩa phim, đĩa ca nhạc về chiến thắng Điện Biên Phủ và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Người dân Mường Phăng hiền hoà và hiếu khách. Họ bán các sản phẩm làm ra còn tươi rói như: Măng rừng, khoai mài và các dược liệu thuốc Nam, đặc biệt là rất nhiều giò phong lan rừng.

Khu vùng Mường Phăng (còn gọi là “rừng Đại tướng”)
Khu vùng Mường Phăng (còn gọi là “rừng Đại tướng”)

Tôi cũng được nghe người dân ở đây kể rằng: “Thời kỳ chống Pháp, các già làng của bản không biết có bộ đội ở trong rừng, chỉ khi chúng ta toàn thắng Điện Biên Phủ, họ mới biết trong đó có Bộ chỉ huy chiến dịch. Hướng dẫn viên Cà Thị Minh cho biết: “Người Thái rất chú trọng mái tóc. Bà mẹ thường ngồi trên bậc cầu thang nhà sàn chải tóc cho con gái và đưa ra tắm suối. Mái tóc suối lùa vào mái tóc dài đen thật mềm mại được gội bằng lá rừng hương thơm thật quyến rũ thoang thoảng và đằm thắm.

Qua con đường xếp bằng đá khoảng 200m là khu lán của bộ phận thông tin liên lạc, cách đó khoảng 800 m là sở chỉ huy. Ngôi lán làm việc của Đại tướng thật đơn giản, vách tre, mái lợp lá, giường nghỉ và bàn làm việc cũng bằng tre. Khi bước vào căn lán bỗng nhiên Cà Thị Minh kêu lên: “Ôi, có con rắn lột xác kìa! Chúng tôi nhìn lên mái lán, quả thật có vỏ xác rắn màu trắng ở trên kèo tre. Thật xúc động bởi ngày nào cô cũng dẫn khách du lịch vào đây, không có sự thay đổi nhỏ nào của các di tích qua được đôi mắt cô gái Thái xinh đẹp này. Cũng như khi chỉ cây hoa Ban trắng trước lán Đại tướng, cô thốt lên: “Hoa nở đẹp quá! Hoa trước lán Đại tướng là hoa của tình yêu”. Mỗi ngày Minh đi bộ trung bình 10 cây số để hướng dẫn các đoàn khách mà không biết mệt. Vì theo cô đi dưới cánh rừng toàn hương thơm cây cỏ, hoa lá, thỉnh thoảng xuống dòng suối róc rách mát chảy len lỏi rửa mặt là tỉnh cả người. Tôi hỏi:

- Ấn tượng nhất của em ở khu rừng Đại tướng là gì?

Minh chỉ vào đường hầm cạnh cây bưởi:

- Đây chính là công trình vĩ đại của người lính công binh tài hoa và tài nghệ. Không có la bàn hướng dẫn, họ đào từ hai phía nghe tiếng cuốc đào mà định hướng chỉ có chệch nhau chừng nửa mét. Đường hầm Đại tướng hình thang trần lát bằng gỗ cây dài 69m. Đường hầm của cố vấn Trung Quốc hình vòm quả trứng không lát cây nhưng cũng rất chắc chắn, dài 25 m. Tất cả đều được kiến tạo bằng đôi tay của những người lính vốn là thợ mỏ ở Quảng Ninh.

Có một Điện Biên huyền thoại

Trước lúc lên thăm lại chiến trường Điện Biên Phủ, tôi đã vào quê hương anh hùng Phan Đình Giót ở xã Cẩm Quan (Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh). Người em ruột của ông là Phan Đình Giát, năm nay đã 94 tuổi dặn dò: “Cháu lên Điện Biên nhớ vào nghĩa trang thắp hương cho cụ Giót với nhé. Tôi nay tuổi già sức yếu, mong mỏi được ra Điện Biên một chuyến nhưng chắc không đi được nữa”.

Tác giả bên mộ anh hùng Phan Đình Giót
Tác giả bên mộ anh hùng Phan Đình Giót

Tôi bồi hồi nhớ lại câu chuyện nhà thơ Phạm Ngọc Cảnh cùng quê Hà Tĩnh với phan Đình Giót kể lại lúc nhà thơ là diễn viên “văn công nhí” lên mặt trận Điện Biên phục vụ bộ đội: “Khi đến đơn vị Phan Đình Giót, gặp anh đang đào chiến hào, biết có đồng hương, anh Giót mừng lắm và nhờ gửi thư về cho vợ. Phạm Ngọc Cảnh tìm giấy bút đưa cho anh, Phan Đình Giót bảo: “Tớ mà viết được thì nhờ cậu mần chi. Thôi cậu viết giúp tớ”. Anh Cảnh bèn chắp bút, anh Giót ký vào. Phan Đình Giót đã hy sinh ngày 13/3/1954. Bây giờ, anh nằm cạnh anh hùng Trần Can hy sinh ngày 7/5/1954 – ngày kết thúc chiến dịch Điện Biên Phủ lịch sử.

Lên Điện Biên lần này, chúng tôi gặp rất nhiều đoàn cựu chiến binh, đặc biệt là du khách nước ngoài. Nghe cuộc trò chuyện của anh bạn phóng viên giỏi tiếng Pháp với một nhà báo phương Tây, tôi được biết những chi tiết rất thú vị quanh Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đó là một Tập đoàn quân sự mạnh, được trang bị vũ khí tối tân với những binh đoàn lính lê dương thiện chiến lừng danh của nước Pháp nhưng các cứ điểm quân sự lại được đặt bằng tên các phụ nữ mĩ miều, quí tộc và duyên dáng đúng với phép lịch sự văn minh của người Pháp: Bản Kéo tên là Annemarie; Đồi Độc Lập và cô nàng Gabrielle, Hồng Cúm là IsaBe’lla…

Có một điều kỳ lạ rất hiếm thấy trong chiến tranh, đó là sau trận đánh mở màn đầu tiên ở đồi Him Lam ta đã giành chiến thắng, được phép của “Tướng Giáp” (theo cách nói của nhà báo phương Tây), một cha đạo cùng với đại uý quân y Pháp và một số binh lính được phép lên Him Lam lấy thương binh. Đội tải thương đã nhặt được 300 xác lính, có 14 lính bị thương. Khi lấy thương binh xong, quân địch được lệnh phản công chiếm lại đồi Him Lam nhưng binh sĩ mất tinh thần đã khiếp đảm đành ngậm ngùi chấp nhận để mất “cô Beatritx”- một cứ điểm đề kháng quan trọng.

Cô gái Cà Thị Minh - dân tộc Thái hướng dẫn viên ở khu di tích Mường Phăng
Cô gái Cà Thị Minh - dân tộc Thái hướng dẫn viên ở khu di tích Mường Phăng

Lúc chúng tôi đến thăm hầm Đơ cát tơ ri, tình cờ gặp đoàn cựu chiến binh trong đó có đồng đội với đại đội trưởng Tạ Quốc Luật- người dẫn đầu một tổ xung kích chọc thẳng mũi nhọn về chỉ huy sở của tướng giặc Đờ cat tơ ri. Người bạn đồng đội của anh Luật kể lại: “Lúc đó đại liên của địch từ các đồn, lựu đạn của địch từ các giao thông hào vẫn bắn, ném ra như mưa. Bốn chiếc tăng lớn kiểu Mỹ vẫn lồng lộn chạy quanh chỉ huy sở bắn lung tung. Nhiều cờ trắng của địch đã bắt đầu mọc trên giao thông hào, trước lỗ châu mai giặc. Hầm chỉ huy của Đờ cát tơ ri ở sâu dưới đất ngang dọc tới 10, 20 thước, có hai lối lên xuống. Bọn giặc ngoan cố ở dưới hầm ném lựu đạn lên. Quả thủ pháo đầu tiên của chiến sĩ Nhỏ ném lọt vào cửa hầm nổ vang. Trong khi đó cửa hầm thứ hai đã bị ta bịt chặt. Khói lựu đạn chưa tan, một tên sĩ quan giặc đã giờ tay từ dưới bò lên mặt xám ngắt. Hắn run run nói với chiến sĩ ta: “Toàn bộ tư lệnh Điện Biên Phủ chúng tôi xin hàng”. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật và hai đồng chí xuống một cửa hầm, hai đồng chí khác xuống cửa hầm thứ 2. Trong hầm giặc máy điện vẫn chạy rầm rầm, đèn điện vẫn sáng.

Vừa thấy bóng quân ta, Đờ cát tờ ri và Bộ tham mưu hơn 20 thằng tất cả xếp hai hàng giơ tay. Cạnh bàn giấy tên tướng giặc một đống giấy còn đang âm ỉ cháy. Trên bàn rượu bày lỏng chỏng. Đờ cát tơ ri nói: “Tôi hạ lệnh cho quân lính tôi ra hàng và phi cơ không được ném bom nữa”. Một điều trùng hợp thật thú vị là cuộc hành quân đổ bộ xuống Điện Biên Phủ có tên là “Hải Ly” (tiếng Pháp là Castor) tên một giống chuột hay chui rúc vào những hang hóc ngầm dưới nước và có biệt tài về xây dựng tổ. Biểu tượng “chuột” đã biến 16 ngàn tên giặc thành “chuột người” chen chúc trong các hầm hào quân y hôi thối với kết cục thật bi thảm.

Trên đội A1
Trên đội A1

Vào thăm Bảo tàng chiến thắng, tôi thật xúc động khi được nghe hướng dẫn viên giới thiệu về chiếc xe Cút- kít mà chủ nhân đã dùng tấm hoành phi sơn son thiếp vàng của bàn thờ nhà mình đóng thành bánh xe tròn chở hàng. Tôi gặp ở đây những chiếc xe đạp được gia cố lại, khung gá thêm mấy thanh sắt chịu lực để có thể chất hàng nặng. Nan hoa bánh xe nhỏ thì thay bằng cỡ lớn. Một đoạn tre nối dài ghi đông để có chỗ nắm, phanh xe cũng được chuyển ra phía sau cho tiện, bởi khi đi đêm, một tay phải điều khiển ghi đông, tay kia phải cầm đuốc soi đường. Một nhà báo Pháp đã ví những chiếc xe đạp thồ này là “dòng sông sắt huyền thoại”.

Thành phố Điện Biên đã thay da đổi thịt nhanh chóng. Cái tên Him Lam năm nào nay được đặt cho khu du lịch sinh thái với lối kiến trúc đậm chất Tây Bắc mà vẫn phóng khoáng hiện đại. Vừa qua, HĐND tỉnh Điện Biên đã quyết định đổi tên đường 7- 5 thành đường Võ Nguyên Giáp. Đây là con đường đẹp nhất, có qui mô lớn nhất địa bàn thành phố, đi qua nhiều điểm di tích quần thể chiến trường Điện Biên Phủ như: Trung tâm đề kháng Him Lam, tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ, nghĩa trang liệt sĩ A1, Bảo tàng chiến thắng… Trên đồi cao có dựng tượng đài chiến sĩ Điện Biên.

Điện Biên Phủ là vùng biên ải, tên Điện Biên do vua Thiệu Trị đặt năm 1841 đổi tên từ châu Ninh Biên. Điện nghĩa là vững chắc, biên là vùng biên giới- Điện Biên là biên giới vững chãi. Phải chăng vì thế mà thời gian mưa nắng càng làm lấp lánh thêm những huyền thoại của lịch sử trên vùng đất này.

Điện Biên - Hà Tĩnh, tháng 4- 2014

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast