Ghi ở bản Giàng 1

Bản Giàng 1 thuộc xã Hương Lâm (Hương Khê – Hà Tĩnh), gồm có 38 hộ đồng bào dân tộc Mã Liềng. Năm 1991, Đồn Biên phòng 575 đã phát hiện dân tộc này đang sống khổ sở, mông muội giữa rừng sâu; sau đó bộ đội biên phòng cùng Đảng, Nhà nước đã vận động họ xuống núi, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, giúp dân bản hoà nhập với cuộc sống của người kinh. Tuy vậy, cuộc sống của đồng bào nơi dây vẫn còn gặp nhiều khó khăn.

Hoà nhập

Năm 1991, Đồn Biên phòng 575 phát hiện dân tộc Mã Liềng ở khu vực Khe Núng - Động Tràm (xã Hương Lâm –Hương Khê). Thời bấy giờ, cả bản chỉ có 7 gia đình. Cuộc sống của bà con dân bản vô cùng lạc hậu, nghèo khổ, đói rách; họ chủ yếu dựa vào hái lượm, săn bắt; không biết sản xuất. Sau khi phát hiện, Bộ đội biên phòng cùng chính quyền địa phương vận động bà con dân bản xuống núi, hỗ trợ, hướng dẫn, giúp đỡ bà con làm quen với cuộc sống hiện đại của người kinh. Những ngày đầu, bộ đội biên phòng đã “cùng ăn, cùng ở, cùng làm” với bà con dân bản. Đảng và nhà nước cũng có nhiều chính sách hỗ trợ bà con. Nhờ vậy, từ chỗ gần như ăn lông ở lổ, một thời gian sau, bà con dân tộc Mã Liềng ở đây đã hoà nhập vào cuộc sống người kinh.

Với chính sách quan tâm đến đời sống đồng bào dân tộc của Đảng và Nhà nước, những năm qua, cuộc sống của đồng bào dân tộc ở bản Giàng 1 đã có nhiều thay đổi. Đến nay bản đã có đường nhựa, có nhà văn hoá sinh hoạt và điện thắp sáng. Tuy nhiên, cuộc sống của bà con nơi đây vẫn đang gặp nhiều gian khổ...

Trưởng bản Dương Văn Long cho biết: Toàn bản hiện có 38 gia đình với 176 nhân khẩu. Cuộc sống của bà con dân bản vẫn chủ yếu dựa vào rừng vì chừng ấy con người nhưng chỉ có 4 mẫu đất, không có ruộng. Đất đồi núi thì năng suất rất thấp, vì vậy, quanh năm bà con phải đi mua gạo. Trưởng bản Dương Văn Long cho biết thêm: Cũng vì ruộng đất ít nên đồng bào đang khó khăn lắm. Toàn bản có 38 hộ thì có đến 15 hộ nghèo, 5 hộ đói; số còn lại cũng chủ yếu là đủ ăn.

Trò chuyện với chúng tôi, Trưởng bản Dương Văn Long tỏ lòng biết ơn đến sự quan tâm, giúp đỡ của Đảng, Nhà nước, bộ đội Biên phòng nhưng ông Long cũng trăn trở vì không biết làm cách nào để dân bản thoát nghèo, để khỏi phiền nhà nước viện trợ mãi. Tuy nhiên, một điều khiến ông phấn khởi là, mặc dù cuộc sống còn khó khăn nhưng cái sự học ở bản ông được thầy giáo Đinh Văn Mạnh và cô Đoàn Thị Thuận “cắm bản” từ gần 15 năm nay nên các em được học hành đến nơi đến chốn.

Những giáo viên “cắm bản”

Theo chân Trưởng bản Long, chúng tôi tìm đến Điểm trường Bản Giàng. Điểm trường bản Giàng là ngôi nhà xây 3 gian, nằm ở một bãi đất khá bằng phẳng ở khu Trại dưới, giữa 3 bên rừng núi, trực thuộc trường Tiểu học Hương Lâm. Trong ngôi nhà 3 gian này, một gian dùng làm văn phòng, 1 gian cho lớp Mầm non và gian còn lại dành cho 4 lớp tiểu học của thầy Mạnh. Đồng chí cán bộ văn hoá xã Hương Lâm gọi đùa là phòng học “4 trong 1”. Điều lạ lẫm nhưng cũng thú vị là một phòng học nhưng có đến.2 cái bảng; một bảng là bảng chống loá, còn bảng kia được ghép bằng 4 tấm ván của dân bản tự làm. Hai cái bảng này được dùng để dạy cho 11 em học sinh, gồm 1 em lớp 1, 5 em lớp 2, 2 em lớp 3 và 3 em lớp 5. Các em được học đầy đủ các môn học và học đúng số giờ, số tiết theo chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Duy chỉ có một điểm khác là, tất cả các môn học cũng như tất cả các lớp học đều có chung một giáo viên duy nhất là thầy Mạnh. Trong một phòng học chừng chưa đầy 10 m2 mà em thì làm toán, em thì học văn, em thì tập viết... khiến chúng tôi cũng bật cười. Có lớp học lợp ngói, có thầy giáo tận tâm nhưng đồ dùng dạy học cho các em thì hầu như rất thiếu thốn, vì thế, sự học của các em cũng vất vả hơn nhiều soi với các em học sinh nơi khác.

Thầy Mạnh dạy đồng thời 1 lúc 4 lớp.

Thầy Mạnh cho biết, trước đây thầy nguyên là công nhân của lâm trường khai thác. Trong quá trình đó, thầy thấy các em đồng bào thất học nên có ý định dạy cho các em theo kiểu “bình dân học vụ”. Khi ý tưởng của Thầy được chính quyền và ngành giáo dục đồng ý, thầy thi vào trường Trung cấp sư phạm Hà Tĩnh và theo học, rồi về “cắm bản” từ năm 1996 đến nay. Thầy Mạnh cho biết thêm, hai năm nay có đường đi lại và trường chuyển về Trại dưới nên đỡ vất vả, chứ trước đây, hơn mười mấy năm trời, không có đường từ miền ngoài vào, thầy toàn phải men theo rừng núi đi bộ khoảng gần 10 km, cắt qua mấy khe, mấy núi mới đến được với bản. Gian khổ, vất vả nhưng đợc cái tình cảm của các em, của dân bản dành cho thầy thì bao la. Chính vì vậy, khi hỏi, thầy có ý định chuyển trường không? Thầy Mạnh trả lời: Không! Tôi sẽ vẫn ở đây tiếp tục dạy dỗ con em dân bản, mặch dù, hoàn cảnh gia đình bây giờ rất cách trở. Hai con nhỏ đang thuê nhà ở thị trấn Hương Khê để học; vợ cũng dạy ở xã vùng sâu Hương Liên... Ngôi nhà tranh xập xệ của Thầy Mạnh ở xã Hương Lâm cũng chính vì vậy mà thỉnh thoảng mới có bóng người...

Thầy Mạnh không màng gì danh lợi cho mình, thậm chí gần 15 năm “cắm bản” thầy chưa được nhận dù chỉ một tờ giấy khen; thưởng tết thì nhiều lắm là một gói mì chính, nhưng thầy vẫn không thắc mắc. Mà, niềm mong mỏi của thầy là làm sao ngành Giáo dục quan tâm hơn đến sự học vùng sâu vùng xa này, chí ít cũng là đầu tư mua sắm cho các em đầy đủ đồ dùng dạy - học để các em đỡ thiệt thòi.

Lớp mần non của cô Đoàn Thị Thuận.

Cách phòng học “4 trong 1” của thầy Mạnh một phòng là lớp mần non của cô Đoàn Thị Thuận. Khi chúng tôi đến, cô trò đang hát vang bài “Đi học” - (Trường của em be bé, nằmg lặng giữa rừng cây...). Cô Thuận cũng là giáo viên “cắm bản” đã gần chục năm nay nhưng mới được vào biên chế năm ngoái. Lớp Mần non của cô Thuận cũng chỉ võn vẹn được 6 em. Cũng như thầy Mạnh, cô Thuận phàn nàn rằng, học sinh của cô rất thiếu đồ chơi, đồ dùng học tập; thậm chí, nhiều khi cô đã phải trích từ đồng lương ít ỏi của mình ra để mua đồ dạy học cho các cháu. Hỏi về tiền thưởng tết, cô Thuận bảo: Cũng máy lắm thì được gói mì chính thôi!.

Lời kết

Từ một “bộ tộc” gần như ăn lông ở lổ, người Mã Liềng ở Bản Giàng 1 được Đảng, Nhà nước và bộ đội biên giúp đỡ nên cuộc sống của bà con dân bản đã đổi thay rất nhiều. Tuy nhiên, thực tế, đời sống của dân bản vẫn đang rất khó khăn khi tỷ lệ đói nghèo vẫn chiếm hơn 50%. Họ vẫn chỉ được “xâu cá” chứ chưa thật sự có “cần câu” để tự thân câu cá. Vì vậy, để đi đến no đủ bền vững là vô cùng khó khăn. Về sự học, mặc dù đã có những giáo viên cắm bản như thầy Mạnh, cô Thuận nhưng sự học của các em vẫn còn nhiều thua thiệt. Để cuộc sống của đồng bào dân tộc Mã Liềng ở Bản Giàng 1 sánh kịp với những nơi khác, đang rất cần sự nỗ lực từ nhiều phía.

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast