Không dễ để tạo nên một cuộc cách mạng trong bối cảnh chính trị rối ren của những năm 1945, khi các đảng phái chính trị đồng thời xuất hiện trên cùng một bờ cõi. Đứng sau các đảng phái “mọc lên như nấm” thời ấy (GS. Lê Thành Khôi), dĩ nhiên là các trí thức, thậm chí có bàn tay phía sau của các quốc gia bên ngoài.
Giữa bối cảnh ấy, nếu không có một sợi chỉ đỏ chạm đến trái tim nồng hậu của dân chúng, cuộc cách mạng sẽ thất bại, bởi vì không thể tập hợp được lực lượng. Trong khi, tất cả các lý thuyết về chiến tranh từ cổ chí kim đều khẳng định rằng, sức mạnh của cách mạng thuộc về dân chúng. “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” (Nguyễn Trãi).
Trong một bối cảnh hỗn loạn của đất nước giữa lúc Nhật, Pháp đang rối ren, các luồng tư tưởng xáo trộn, bằng thiên tài và đạo đức vô song của người dẫn đường (Hồ Chí Minh), bằng những trí thức tiên tiến, có tài thao lược, luôn đặt Tổ quốc lên trên hết (rõ nhất là Võ Nguyên Giáp), tập thể những con người của Đảng ta đã tập hợp một cách thuyết phục đông đảo dân chúng thuộc các giai cấp, tầng lớp khác nhau đứng về tính chính nghĩa của ngọn cờ Độc lập.
Đội quân Việt Minh đã không quản ngại gian lao, hiểm nguy, mưu trí xây dựng lực lượng chính trị, tập hợp võ trang, tích cực tuyên truyền trong mọi không gian từ miền núi tới đồng bằng, đô thị để thể hiện chung một ý chí - giành độc lập, lật đổ chế độ phong kiến, đánh đuổi Pháp và Nhật.
Trong cuốn sách về lịch sử Việt Nam được GS. Phan Huy Lê gọi là “kinh điển”, GS. Lê Thành Khôi - khi đó đang sống tại hải ngoại, đã viết rất chân thực, đầy diễm lệ về đoàn quân Việt Minh: “Việt Minh trước hết được làn sóng Nhân dân thực sự nâng đỡ vì đã biết nắm bắt những khát vọng ẩn sâu của Nhân dân. Cuộc cách mạng sẽ toàn thắng một cách dễ dàng cho thấy sức mạnh và sự đồng lòng của tình cảm dân tộc”(1).
Cùng với yếu tố mấu chốt đó, GS. Lê Thành Khôi cũng đã trung thực đề cập về sự tài tình trong “chiến thuật” của Việt Minh khi khéo léo sử dụng các nhân vật ngoại quốc, gài người vào các đảng phái kình địch. Ông còn viết rất rõ trong bối cảnh trước khi khởi nghĩa: “Uy tín của phong trào (Việt Minh - P.V) càng lên, khẩu hiệu của phong trào được phổ biến khắp nơi. Người của phong trào chiếm các kho gạo và phân phát gạo cho nông dân (...). Số người được cài vào các làng và các công sở ngày càng nhiều. Tại căn cứ địa Việt Bắc, các khâu chuẩn bị đang hoàn tất, tiến tới cuộc Cách mạng Tháng Tám, cuộc cách mạng sẽ mở ra một trang sử mới trong lịch sử Việt Nam”(2).
Từ ngọn cờ Độc lập dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhân dân Việt Nam từ mọi miền đã nhất tề vùng lên với một khí thế và khát vọng chưa từng có. Chính vì vậy, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn dân: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, triệu triệu bước chân đã chung một con đường, chung một ý chí. Chiều 16/8/1945, theo chỉ đạo của Ủy ban Khởi nghĩa, một đơn vị giải phóng quân do đồng chí Võ Nguyên Giáp chỉ huy xuất phát từ Tân Trào, tiến về giải phóng thị xã Thái Nguyên - mở màn cho chiến dịch quân sự hỗ trợ tổng khởi nghĩa.
Từ Việt Bắc tới mọi miền Tổ quốc thân yêu, phong trào đấu tranh cách mạng lan rộng và mạnh mẽ như thác nước. Ngày 18/8/1945, các tỉnh: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam là những địa phương đầu tiên giành được chính quyền tại tỉnh lỵ - tạo khí thế bừng bừng. Tại Hà Nội, lá cờ đỏ sao vàng phấp phới trước hàng vạn người biểu tình nơi Nhà hát lớn. Ngày 18/8, viên khâm sai từ chức; ngày 19/8, Việt Minh chiếm các công sở, chính quyền Bảo Đại - Trần Trọng Kim tan rã. Đêm 19/8/1945, chúng ta hoàn toàn làm chủ Thủ đô. Tại Huế, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập (ngày 20/8/1945) và ngày 23/8/1945, hàng vạn người tiến vào thành phố, giành chính quyền trong hòa bình. Tại Sài Gòn - Gia Định (sau này là TP Hồ Chí Minh), Xứ ủy Nam Kỳ ấn định ngày khởi nghĩa là 25/8/1945. Ngày đó, các đoàn công nhân, nông dân, thanh niên từ Gia Định, Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Mỹ Tho đổ về trung tâm thành phố biểu tình tuần hành, chiếm lấy các cơ sở của chính quyền bù nhìn, tạo nên một cảnh tượng chưa từng có.
Thắng lợi vang dội tại 3 đô thị lớn: Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ. Từ thành thị đến nông thôn, từ miền xuôi đến miền ngược, từ đất liền đến hải đảo - phong trào khởi nghĩa dâng lên như vũ bão.
Dưới ngọn cờ Độc lập, toàn quốc đã tạo nên sự thống nhất thiêng liêng chưa từng có trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Thắng lợi này đã dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - nhà nước do Nhân dân lao động làm chủ. Từ đây, với nền tảng trí tuệ của Đảng và sức mạnh của dân chúng, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bước vào bình diện củng cố quốc gia trên tất cả các mặt gồm đối nội và đối ngoại.
Sử sách đã viết hàng nghìn trang về sự tài tình trong lãnh đạo quốc gia giai đoạn “trứng nước” giữa bối cảnh thù trong, giặc ngoài và hậu quả của nạn đói năm 1945 để lại. Không dễ để lập nên một Chính phủ, tạo ra một bản Hiến pháp vô cùng ý nghĩa (năm 1946) giữa bối cảnh đấu tranh chính trị cam go từng tình huống, quốc gia vừa độc lập… nếu không phải người đứng đầu là vị lãnh tụ kiệt xuất - Hồ Chí Minh. Lịch sử mãi mãi không quên công ơn Người kể từ ngày Người ra đi tìm đường cứu nước cho đến các giai đoạn cam go của lịch sử với những quyết định “đấu trí” hết sức tài tình trước các thế lực thù trong, giặc ngoài.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công để lại nhiều bài học vô giá, nhưng có lẽ, bài học quan trọng nhất là mối quan hệ kết hợp giữa sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng với sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Những bài học quan trọng ấy được Đảng ta luôn luôn phát huy sáng tạo trong bối cảnh lịch sử cụ thể, từ giai đoạn kháng chiến chống Pháp, Mỹ, thực hiện cải cách thời đổi mới cho đến tận ngày nay.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang ngày càng củng cố khối đoàn kết, quyết tâm xây đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hiện thực hóa Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ. Trong bài viết với tiêu đề hết sức cô đọng “Sức mạnh của đoàn kết”, GS.TS Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã phân tích rất sâu sắc các vấn đề lý luận và thực tiễn của sức mạnh đoàn kết. Trong bối cảnh hiện nay, Tổng Bí thư Tô Lâm tin tưởng: “Sức mạnh của đoàn kết một lần nữa sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi trở ngại, biến thách thức thành cơ hội, đưa đất nước vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên phồn vinh, thịnh vượng, hội nhập và phát triển bền vững vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của Nhân dân”(3).
-----------------------
(1), (2) Lê Thành Khôi, “Lịch sử Việt Nam - từ nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX”, NXB Thế giới, Hà Nội, 2014, tr.563, 560.
(3) GS.TS Tô Lâm - Tổng Bí thư BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, “Sức mạnh của đoàn kết”, https://tapchicongsan.org.vn.