Áo tơi - thanh âm mộc mạc khi xướng âm tên gọi ấy, như nhiên đã gợi cho người ta về những cánh đồng quê bát ngát, yên bình. Áo tơi, một chiếc áo dân dã mà ẩn chứa biết bao giá trị văn hoá của người nông dân chân lấm tay bùn…
Một đêm trời Nam xa xôi, trong bập bùng lửa trại, người bạn đồng hương của tôi đã đọc mấy câu thơ của nhà thơ Đặng Bá Tiến: “Bước từ trong bóng tơi ra/ Bao người con của quê ta rỡ ràng”. Anh bạn tôi đã đọc mấy câu thơ ấy trong niềm tự hào rưng rưng. Lúc ấy, trước mắt tôi không còn bập bùng lửa trại nữa mà là một cánh đồng chấp chới dáng người. Ở đó, hình dáng những chiếc áo tơi màu nâu sáng cứ hiện lên như một bức phù điêu bất biến mà người nông dân đã tạc giữa cánh đồng.
Vốn dĩ là đứa trẻ lớn lên từ làng, kỷ niệm ấu thơ của tôi hầu hết đều gắn với ruộng đồng, sông nước. Trong suốt những tháng ngày ở với bà, tôi hầu như đã hòa mình vào cánh đồng. Thịt da tôi đượm màu nắng gió, hơi thở tôi quyện đặc mùi bùn non, mùi đất ẩm, mùi khói đốt đồng, mùi trầu thơm của bà, thoang thoảng hương cau, hương bưởi… Tâm hồn tôi nương náu trong lũy tre xanh, dưới những tán cọ rì rào gió; nương náu trong những manh áo tơi mát rượi, ngai ngái mùi lá rừng quyện mùi mưa, nắng…
Tôi không biết chính xác thời điểm xuất hiện của áo tơi trong đời sống của người nông dân Việt Nam nhưng tôi biết áo tơi được tạo ra từ những kinh nghiệm trong lao động sản xuất của người nông dân; từ những ứng xử hiền hòa, thân thiện của con người thôn quê với thiên nhiên. Tôi biết, áo tơi đã che nắng, che mưa cho hàng bao thế hệ, trong đó có bà tôi, cha chú tôi, có tôi... Áo tơi cũng đã ươm ủ khát vọng cho bao con người Xứ Nghệ, để từ trong gian khổ, khó khăn, truyền thống hiếu học được phát huy mạnh mẽ. Họ đã thoát khỏi áo tơi, thoát khỏi làng quê, thành danh để quay về dựng xây đời sống mới…
Ở một phương diện nào đó, việc sử dụng áo tơi cũng là một nét văn hóa trong ứng xử với thiên nhiên của người nông dân. Chính vì ý nghĩa đó mà áo tơi đã trở thành hình ảnh độc đáo, có tính khắc họa trong nhiều tác phẩm thơ, ca. Chiếc áo ấy đã trở thành một biểu tượng văn hóa của làng quê.
Tôi chợt liên tưởng tới câu thơ ấy của nhà thơ Đặng Bá Tiến khi bắt gặp bóng dáng áo tơi trên những thửa ruộng ven tỉnh lộ 2. Những cánh đồng thuộc xã Sơn Lộc và Quang Lộc (Can Lộc) những ngày này nắng như đổ lửa, nắng khiến đám đất vừa cày lên khô rạc, bạc phếch. Nắng khiến người nông dân mỗi khi ra đồng đều bịt bùng trong nhiều lớp áo bảo hộ… Ấy thế mà, cũng chẳng đỡ bị thiêu đốt là mấy.
Bước thấp bước cao trên bờ vàng nắng của cánh đồng thôn Thịnh Lộc (xã Sơn Lộc), bà Nguyễn Thị Quý như thoải mái hơn khi mang theo chiếc áo tơi bên mình. Bà Quý cho biết: “Tôi có 70 tuổi đời thì có lẽ đã có tới 60 năm sử dụng áo tơi. Mặc áo tơi vừa che được nắng lại vừa vẫn có những khoảng hở để gió luồn vào, mát lắm cháu ạ. Chiếc áo này là bạn tôi bên thôn Yên Lạc (xã Quang Lộc) tặng chứ bây giờ cũng không có mà mua đâu”.
Theo lời chia sẻ của bà Quý, chúng tôi men theo những ruộng lúa để đến Quang Lộc - nơi có nghề chằm áo tơi truyền thống. Đồng quê rộn rã tiếng cày bừa, thấp thoáng những chiếc áo tơi cũ mới…
Người đầu tiên mà tôi dừng lại bắt chuyện là anh Phan Việt (thôn Trà Dương). Anh nói: “Làng tôi bây giờ vẫn còn khá nhiều người giữ thói quen mang áo tơi ra đồng. Tôi cũng thế, có thể sử dụng hoặc không tuỳ thời tiết nhưng áo tơi là một trong những nông cụ không thể thiếu khi ra đồng của chúng tôi. Xưa, ông bà tôi thường tự chằm áo cho cả gia đình sử dụng nhưng bây giờ chúng tôi không chằm nữa mà mua của người bên thôn Yên Lạc. Nắng thế này, không có áo tơi thì bỏng da mất”.
Thôn Yên Lạc những ngày mùa màng như vắng lặng hẳn. “Người dân ra đồng làm mùa hết rồi, không mấy ai ở nhà chằm tơi đâu. Có thì đến nhà bà Thái Yến hoặc ông Đức, may ra…” - bà cụ chỉ đường cho chúng tôi nhiệt tình nói.
Thật may mắn khi địa chỉ chúng tôi đến, người ta đang chằm áo tơi. Chủ nhà Nguyễn Thị Thái chia sẻ, bà không phải người gốc Yên Lạc mà là người Thạch Hà về đây làm dâu đã hơn 30 năm. Đó cũng chính là quãng thời gian bà gắn bó với chiếc áo tơi. Chừng 10 năm nay, bà trở thành “thợ” chính của gia đình. Hầu như không có ngày nào bà Thái không cong mình trên chiếc khung ván dùng để chằm tơi. Đến hơi thở cũng đượm mùi lá rừng.
....................................
“Trước đây, khi còn khỏe, mỗi ngày tôi chằm hơn chục chiếc nhưng bây giờ mắt kém, xương khớp đau mỏi nên cố lắm cũng chỉ được dăm chiếc. Mùa màng tơi được giá, làm chẳng kịp mà bán. Ở đâu tôi không biết chứ ở Yên Lạc ai cũng dùng áo tơi” - bà Thái bộc bạch.
Để có lá cho mẹ và vợ chằm áo tơi, chừng mươi ngày, anh Thân Viết Trung phải lên rừng Hương Khê bẻ lá. Có hôm gặp được “luồng lá” thì đi một buổi là về. Có chuyến không may mắn, tìm mãi không thấy, anh phải đi nâm (ngủ lại trong rừng) đến khi bẻ đủ 1 gánh lá (làm được chừng 50-60 áo) mới về.
Nhìn cái cách bà Thái chuốt từng sợi mây, vuốt từng cánh lá rồi chằm thoăn thoắt, cái cách anh Trung “bẻ cổ” áo tơi đầy điêu luyện, tôi hiểu rằng, ngoài mưu sinh, họ còn có một đam mê, một tình yêu thực sự với nghề truyền thống này.
“Tôi không biết con cái tôi còn theo nghề truyền thống này đến bao giờ, nhưng riêng tôi, sẽ vẫn gắn bó với nghề đến lúc sức tàn, lực kiệt. Mỗi ngày không được ngồi lên chiếc khung ván, không được cầm cây kim, không được ngửi mùi lá rừng là tôi lại thấy chênh vênh lắm” - bà Thái tâm sự.
Áo tơi là nông cụ của nhà nông nhưng giờ đây đã bao hàm trong đó cả văn hóa của làng quê. Áo tơi gợi đến bà, đến mẹ, đến ký ức đẹp đẽ của bao người. Áo tơi đã thoát ra khỏi hình ảnh lam lũ trên đồng mà nên thơ, nên nhạc. Và rồi, trong những phút giây nào đó, khi đọc lên một câu thơ, hát lên đôi câu hát, dù đang ở nơi đâu, người ta cũng tìm được lối về với nơi chôn nhau, cắt rốn của mình…
thiết kế: huy tùng