Kỹ sư Võ Quý Huân (1912-1967) là một trong bốn trí thức Việt được Bác Hồ đưa về nước phụng sự Tổ quốc năm 1946. Ông cũng là cha đẻ của ngành đúc - luyện kim Việt Nam. Quê nội Nghệ An và quê ngoại Hà Tĩnh đã hun đúc nên một nhà khoa học tài ba, trí thức yêu nước đến nay vẫn luôn được lịch sử nhắc nhớ…
NGƯỜI KỸ SƯ THEO CHÂN BÁC HỒ PHỤNG SỰ TỔ QUỐC
Cơ duyên giúp chúng tôi may mắn được gặp bà Võ Quý Yêu Hòa Bình - người con gái của kỹ sư Võ Quý Huân trong chuyến bà về thăm quê Hà Tĩnh. Trong câu chuyện kể của mình, bao nhiêu ký ức dội về cũng là bấy nhiêu niềm tự hào của người phụ nữ tuổi ngoài 70 khi nhắc về cha, về quê hương Hà Tĩnh, Nghệ An.
Kỹ sư Võ Quý Huân là con trai út trong gia đình có 3 anh em. Ông được sinh ra ở Đà Nẵng nhưng lớn lên ở quê nội Thanh Chương (Nghệ An) trong một gia đình truyền thống hiếu học. Cha của ông là cụ Võ Quý Minh, quê ở Thanh Chương (Nghệ An); mẹ là cụ bà Trần Thị Lựu, quê ở Hương Khê (Hà Tĩnh); hai anh trai của ông làm kỹ sư công chính và bác sỹ. Truyền thống quê hương kiên cường, anh dũng và truyền thống gia đình đã sớm hun đúc nên chí khí trong Võ Quý Huân.
Khi mới chỉ 23 tuổi, năm 1935-1937, Võ Quý Huân tham gia phong trào đấu tranh, cổ vũ đồng bào đứng lên đòi quyền lợi với thực dân Pháp. Ông cùng một số anh em, bạn bè lập ra tờ Báo Đông Dương hoạt động (L'activité Indochinoise) xuất bản song ngữ Việt - Pháp. Võ Quý Huân lúc này vừa là giám đốc kiêm thư ký tòa soạn của báo. Đây là một tờ báo tiến bộ đương thời nên bị thực dân Pháp đóng cửa; ông buộc phải tạm lánh sang Pháp.
Giữa năm 1937, sau khi sang Pháp, ông vừa đi học, vừa đi làm và tích cực tham gia các buổi tọa đàm chính trị, các cuộc mít tinh của phong trào bình dân do Đảng Cộng sản Pháp tổ chức. Ông tham gia Tổng Công đoàn Pháp (CGT), tháng 7/1939, ông Võ Quý Huân chính thức được kết nạp vào Đảng Cộng sản Pháp.
Cũng trong quãng thời gian này, ông đã hoàn tất việc lấy bằng kỹ sư cơ - điện và được tuyển dụng vào hãng tàu thủy Compagnie Transatlantique của Pháp. Sau đó, ông tham gia và được bầu làm Thư ký Hội Pháp - Việt hữu nghị, hoạt động tích cực trong việc kết nối người Việt tại Pháp và kêu gọi hỗ trợ, ủng hộ cho nền độc lập Việt Nam. Những năm 1940 - 1946, ông Võ Quý Huân tiếp tục theo học và được nhận bằng đúc - luyện kim và kỹ nghệ chuyên nghiệp, đồng thời theo học tiến sĩ tại Học đường Sorbonne (Paris) về cơ lý học. Khi chỉ còn 1 năm nữa là bảo vệ luận án tiến sĩ thì một bước ngoặt lớn đã làm thay đổi cuộc đời ông.
Ngày 25/4/1946 - 16/5/1946, phái đoàn của Quốc hội Việt Nam do đồng chí Phạm Văn Đồng - Phó Chủ tịch Ban Thường trực Quốc hội và đồng chí Tôn Đức Thắng - Ủy viên Ban Thường trực Quốc hội dẫn đầu sang Pháp. Tiếp đó, từ ngày 31/5/1946 - 10/9/1946, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu sang Pháp tham dự Hội nghị Fontainebleau. Cũng trong thời gian này (31/5/1946 - 18/9/1946), theo lời mời của Chính phủ Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm chính thức nước Pháp. Trong quãng thời gian Bác Hồ ở Pháp, ông Võ Quý Huân lúc này với cương vị là Phó Chủ tịch Hội Pháp - Việt hữu nghị đã đại diện cho bà con Việt kiều tham gia tiếp đón, hỗ trợ và vận động sự ủng hộ cho đoàn.
Bà Võ Quý Yêu Hòa Bình chia sẻ: “Lớn lên, nghe cha kể về cuộc đời của mình và qua lời kể của những người cùng thời với cha, tôi được biết thời điểm đó, cha là người giúp việc cho phái đoàn, vừa là một trong hai người đã chụp ảnh, quay gần 1.000 thước phim tư liệu về chuyến công tác đặc biệt của Bác Hồ tại Pháp. Cũng từ lần hỗ trợ phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đặc biệt là tiếp xúc với Bác Hồ đã khiến cha tôi hiểu rõ hơn khát vọng độc lập, tự do và mong muốn được cống hiến vì Tổ quốc”.
Thế rồi, hội nghị Fontainebleau thất bại, Chủ tịch Hồ Chí Minh lên đường trở về nước, nhưng trước khi rời Pháp, Bác đã bí mật gặp gỡ một số trí thức tiêu biểu. Và ngày 18/9/1946, trên chiến hạm Dumont d'Urville đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh rời quân cảng Toulon, ngoài các tùy tùng còn có 4 trí thức Việt kiều được Bác Hồ chọn và bí mật theo Người về nước. Đó là kỹ sư Võ Quý Huân, bác sĩ Trần Hữu Tước, kỹ sư Võ Đình Quỳnh và kỹ sư Phạm Quang Lễ (Trần Đại Nghĩa). Hơn một tháng được sống gần gũi bên Bác Hồ, lênh đênh trên tàu, sau này, những trí thức này được gọi là "những học viên đặc biệt" của "Trường Nguyễn Ái Quốc đặc biệt".
Về nước, kỹ sư Võ Quý Huân được phân công giữ cương vị Chánh Văn phòng Bộ Kinh tế (Bộ Công thương ngày nay). Đầu năm 1947, nhằm đáp ứng các yêu cầu mới khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lan rộng, ông được phân công đảm trách cương vị Giám đốc Sở Khoáng chất - Kỹ nghệ Trung Bộ, kiêm Tổng Thư ký Hội đồng sản xuất Kỹ nghệ miền Nam và Liên khu IV.
Năm 1948, nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất vũ khí khi cuộc kháng chiến ngày càng trở nên khốc liệt, Cục Quân giới (Bộ Quốc phòng) đã đề nghị kỹ sư Võ Quý Huân nghiên cứu sản xuất gang để chế tạo các loại vũ khí. Trong bối cảnh nhiều khó khăn, kỹ sư Võ Quý Huân và các cộng sự đã nỗ lực khảo sát, thử nghiệm… Và ngày 15/11/1948, mẻ gang đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được sản xuất thành công từ quặng sắt Vân Trình, đánh dấu mốc son phát triển công nghiệp luyện kim của nước ta. Để đánh dấu sự kiện lịch sử này, mẻ gang đầu tiên đã được sử dụng để đúc tượng bán thân của Chủ tịch Hồ Chí Minh và gửi ra chiến khu Việt Bắc.
Không chỉ là người làm ra mẻ gang đầu tiên của ngành đúc - luyện kim Việt Nam mà Võ Quý Huân còn là người thầy đào tạo ra những “thợ cả” đầu tiên chuyên ngành đúc - luyện kim nước ta. Ông cũng là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Trung cấp Kỹ thuật 1 Hà Nội, tiền thân của Trường Đại học Công nghiệp Hà Nội.
Ngày 20/9/1947, trong thư gửi bác sĩ Trần Hữu Tước, Bác Hồ viết: "...Nói chú biết, chú mừng: Tôi vẫn mạnh khỏe luôn. Mấy anh em cùng về một lần với chúng ta, chú Nghĩa và chú Huân làm việc rất hăng hái và đắc lực, đã gắng sức rất nhiều trong công việc kháng chiến"...
NGƯỜI NẶNG TÌNH QUÊ HƯƠNG
Nhắc về câu chuyện cuộc đời của cha mình không chỉ từ những dấu mốc thời gian, bà Võ Quý Yêu Hòa Bình còn xúc động khi kể về quê hương và những nỗi niềm đau đáu, trăn trở của ông Võ Quý Huân.
Không những vậy, bày tỏ khát khao mong muốn đất nước hòa bình, hưng thịnh, khi đặt tên cho những người con của mình, ông Võ Quý Huân đều lựa chọn những cái tên gắn với mỗi dấu mốc quan trọng của đời mình.
Bà Bình chia sẻ: “Năm 1947, sau khi trở về nước, cha tôi gặp và kết duyên với mẹ tôi - người con gái cùng quê. Sau đó, cha mẹ lần lượt sinh ra 4 anh em. Anh trai đầu ra đời năm 1948, cũng là thời điểm chào mừng mẻ gang đầu tiên, cha đặt tên anh là Võ Quý Gang Anh Hào. Năm 1951, người con trai thứ được cha đặt tên là Võ Quý Thép Hăng Hái, đây cũng là cái tên đánh dấu thời điểm mẻ thép đầu tiên được luyện thành công. Còn tôi ra đời năm 1953, khi chiến dịch Đông - Xuân 1953-1954 khốc liệt, với niềm khao khát hòa bình tột điểm, cha đặt tên tôi là Võ Quý Yêu Hòa Bình. Và năm 1955, khi đất nước đang chia cắt, nhưng với kỳ vọng, tin tưởng đất nước sẽ về chung một nhà hưng thịnh, người em út ra đời và được cha đặt tên là Võ Quý Quốc Hưng”.
Trước đó, hy sinh hạnh phúc cá nhân để trở về nước phục vụ kháng chiến, ông Võ Quý Huân đành để lại người vợ và con gái lúc đó mới chỉ 2 tuổi ở nước Pháp. Đó là người vợ gốc Nga và người con gái mang tên hai dân tộc Võ Quý Việt Nga. Cuộc chia ly kéo dài hàng chục năm và mãi đến sau này, gần 50 năm sau, bà Võ Quý Yêu Hòa Bình cùng cháu ngoại của kỹ sư Võ Quý Huân mới có thể đến Paris, tìm lại người chị em cùng cha khác mẹ của mình. Ngày gặp lại, hai người phụ nữ ở hai đất nước nhưng có chung một dòng máu Việt đã ôm chầm lấy nhau trong nước mắt. Họ khóc cho bao tủi hờn, xa cách đã qua và khóc cho sự trùng phùng, để từ đây hiểu hơn về những hy sinh, chịu đựng của cha mình vì sự nghiệp cao cả.
Bà Bình trải lòng: “Cha tôi từng kể lại, ngày ông nội mất, cha ở Pháp không thể về. Đến lúc cha trở về, nhà chỉ còn lại bà nội. Cha từng hứa, sau khi ổn định rồi sẽ đón bà nội ra cùng. Thế nhưng, những nhiệm vụ vì Tổ quốc, đất nước không thể chậm trễ cứ cuốn cha đi và rồi khi chưa kịp đón thì bà nội cũng mất. Đến nay, phần mộ bà nội thất lạc chưa được tìm thấy. Ngày trước, cha về thăm Hương Khê (Hà Tĩnh) rất nhiều và rất thích những bài hát quê hương. Những giờ phút lâm chung, cha cứ nhắc mãi về quê hương khiến chúng tôi đau xót! Rằng, bởi được lớn lên và nuôi dưỡng bằng mạch nguồn quê hương anh hùng, bằng truyền thống người con xứ Nghệ kiên cường, cha mới có thể làm được những việc như thế!”.
“Cha mất đi nhưng với anh em chúng tôi, quê hương vẫn luôn là nơi chốn trở về. Các anh của tôi sức khỏe yếu hơn, không thường xuyên trở về quê, nhưng với tôi, khi còn sức khỏe tôi sẽ còn về Nghệ An, Hà Tĩnh. Tôi cũng thường xuyên kể những câu chuyện về quê hương với con cháu trong gia đình, để các con, các cháu luôn nhớ và hướng về quê hương” - bà Bình bày tỏ.
NỘI DUNG: THU HÀ
ẢNH: THU HÀ & TƯ LIỆU
THIẾT KẾ: THÀNH NAM