Những phiên tòa trong Truyện Kiều

Lịch sử văn học Việt Nam đến thế kỷ XVIII mới chỉ có mẹo xử án dân gian: Trê cóc, Phạm Công- Cúc Hoa, Phạm Tải - Ngọc Hoa hay Trạng Quỳnh ăn trộm mèo của chúa Trịnh chứ chưa có một tác phẩm nào viết về các phiên tòa như Truyện Kiều.

Hướng tới Kỷ niệm 245 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du

PGS. TS Lê Đình Cúc - Viết riêng cho Hà Tĩnh Online

Một trong nhiều phiên tòa liên tiếp trong Truyện Kiều là phiên tòa xét xử Sở Khanh về tội lừa đảo, mưu mô với Tú Bà dùng thủ đoạn tinh vi để lừa Thúy Kiều đi trốn. Sau khi gia đình Thúy Kiều bị vu oan. Cha và em nàng bị treo lên xà nhà đánh đập tra khảo dã man, nàng đã phải bán mình để lấy tiền đút lót cho bọn sai nha. Nàng bị lừa là được cưới về làm vợ Mã Giám Sinh nhưng thực ra là bị bán cho Tú Bà làm gái mại dâm. Đến Lâm Truy, Thúy Kiều mới biết. Nàng đã chống lại và bị Tú Bà đánh đập tàn nhẫn. Để bảo vệ trinh tiết và nhân phẩm, Thúy Kiều đã tự tử. Trước sự việc đó, Tú Bà đã “bần bật mặt nhìn hồn bay”. Mụ run “bần bật” không phải vì thương xót Thúy Kiều mà mụ sợ nàng chết thì mụ mất vốn. Cho nên “Tú bà chực sẵn bên màn, lựa lời khuyên giải mơn man gỡ dần”. Mụ dùng bài dụ dỗ, đánh vào tâm lý ham sống và hy vọng của con người:

Một người dễ có mấy thân

Hoa xuân phong nhị ngày xuân còn dài.

Mụ nhận lỗi là mình lầm lỡ:

Cũng là lỡ một lầm hai

Mụ hứa không đối xử tàn nhẫn với Thúy Kiều nữa:

Đá vàng sao nỡ ép nài mây mưa

Mụ mở ra nhiều hy vọng cho Thúy Kiều với lời hứa hẹn:

Khóa xuân buồng để đợi ngày đào non

Người còn thì của hãy còn

Tìm nơi xứng đáng làm con cái nhà

Rằng sẽ gả chồng xứng đáng cho Thúy Kiều, vì nếu nàng tự tử thì “thiệt mình” (Thúy Kiều) mà hại đến ta (Tú Bà) hay gì”

Trước những lời ngon ngọt của Tú Bà, tin vào những điều mụ khuyên bảo, dỗ dành và tin vào những lời hứa của mụ cũng như tin vào “thần mộng mấy lời” của Đạm Tiên đã báo trước cho nàng mà Thúy Kiều tiếp tục sống. Nàng chấp nhận yêu cầu của Tú Bà:

Được như lời thế là may

Như vậy về lý là Thúy Kiều đã cam kết, chấp nhận sống tại đây (lầu xanh) của Tú Bà và cũng từ đó, mụ Tú Bà giăng bẫy để Thúy Kiều vi phạm sự cam kết đã có, để đẩy nàng vào vị trí phải chấp nhận những điều kiện do mụ đặt ra sau đó. Và tình tiết vụ án xảy ra là Sở Khanh dụ dỗ Thúy Kiều đi trốn theo kịch bản của Tú Bà như ta đã biết. Nàng đi trốn với Sở Khanh, rơi vào bẫy của Tú Bà, bị bắt lại, nàng bị đánh đập hành hạ hết sức dã man

Tú Bà tốc thẳng đến nơi

Ầm ầm áp điệu một hơi lại nhà

Hung hăng chẳng nói chẳng tra

Giang tay dập liễu vùi hoa tơi bời.

Đến nỗi Thúy Kiều “uốn lưng thịt nát, cất đầu máu sa”. Và phiên tòa xét xử được mở ngay tại lầu xanh. Phiên tòa không có quan tòa. Thúy Kiều vừa là quan tòa, vừa là nạn nhân. Đó không phải là phiên tòa pháp đình mà là phiên tòa dư luận và lương tâm. Chính Tú Bà là thủ phạm, chủ mưu gây nên tội ác hãm hại người lại đi đánh đập người ta. Và Sở Khanh đồng phạm mà cũng là thủ phạm trong vụ án này, là kẻ “Bạc tình nổi tiếng lầu xanh- một tay chôn biết mấy cành phù dung”, được Tú Bà thuê “Có ba mươi lạng trao tay” bị mọi người lên án, đã “mặt mo vác vào” để chối tội, để thanh minh. Thúy Kiều đã vạch mặt và xét xử tội trạng của Tú Bà và Sở Khanh. Nàng vạch tội Sở Khanh và đưa ra chứng cứ là tờ “Tích Việt” và khẳng định:

Đem người đẩy xuống giếng khơi

Nói rồi rồi lại ăn lời được ngay

Còn tiên “Tích Việt” ở tay

Rõ ràng mặt ấy mặt này chứ ai.

Phiên tòa này tuy không phải ở tòa án nhưng cũng không phải chỉ có mỗi Thúy Kiều và Sở Khanh mà có đông người. Sự kiện trên được nhiều người chứng kiến: “Lời ngay đông mặt trong ngoài” và dư luận đồng tình lên án Sở Khanh: “Kẻ chê bất nghĩa người cười vô lương”. Trước bản án của dư luận xã hội: “Phụ tình án đã rõ ràng”. Trước chứng lý rõ ràng, trước dư luận của quần chúng, Sở Khanh đã phải “kiếm đường tháo lui”, chạy trốn vì hắn đã làm những việc đáng xấu hổ, dơ bẩn “dơ tuồng”.

Sở Khanh bẽ mặt, hết đường chối tội nhưng rồi kết quả phiên tòa chỉ là như Kiều tuyên án, một câu nói kháy nói mát rồi cho qua:

Nàng rằng thôi thế thì thôi

Rằng không thì cũng vâng lời rằng không.

Tức là tội ác không bị trừng phạt, kẻ tội phạm là Tú Bà và Sở Khanh vẫn nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật để lại tiếp tục gây tội ác. Dù Thúy Kiều có lẽ phải, có đạo lý, nhưng vì xã hội thời nàng Kiều không có công lý và sức mạnh của pháp lý (tức là cơ quan hành pháp) nên vụ án đã phải khép lại, để nỗi ấm ức cho chúng ta đến hôm nay. Tuy vậy hiệu quả của phiên tòa này là hết sức to lớn. Cái tên Sở Khanh đã là biểu tượng cho những kẻ bất lương, lừa đảo, hèn hạ và trơ trẽn trong cuộc sống. Đến nỗi để chỉ một loại người tồi tệ đểu giả, đáng phỉ nhổ, người đời chỉ cần nói: Đồ Sở Khanh là đủ.

*

* *

Và phiên tòa ông bố Thúc Sinh kiện Thúy Kiều là một phiên tòa thú vị. Ở phiên tòa này, Thúy Kiều là bị đơn bởi vì nàng là “gái lầu xanh” mà lại dám lấy chồng; mà theo dư luận và tâm lý xã hội đã là gái lầu xanh là bất lương, là phường “mèo mả gà đồng”, không được ai tôn trọng và pháp luật lại càng không bảo vệ. Theo Thúc Ông, con trai ông hư hỏng là vì gái lầu xanh quyến rũ. Gia phong nhà ông bại hoại là vì con trai cưới gái đĩ làm vợ. Và hơn nữa, gia đình ông là một gia đình thương gia “môn đăng hộ đối” với “họ Hoạn danh gia” thông gia với “quan Lại Bộ” chứ có vừa đâu. Ta phải biết rằng văn hóa nho giáo

phương Đông và ở Việt Nam danh là to lắm, quan trọng lắm, nhiều khi còn quan trọng hơn cả mạng sống. Tài sản nhà ông khánh kiệt vì con ông: “Thúc Sinh quen thói bốc rời – trăm nghìn đổ một trận cười như không”. Ông làm nghề buôn bán, đồng tiền phải được coi trọng trên hết, thế mà con trai ông lại dám dùng tiền bao gái. Cho nên khi biết chuyện Thúc Sinh lấy Thúy Kiều làm vợ lẽ, ông đã “Phong lôi nổi trận bời bời” và “nặng lòng e ấp” (ông thương con mình) nên “tính bài phân chia”. Ông kiện Thúy Kiều ra tòa vì những tội trạng trên. Thế là lần đầu tiên trong văn học trung đại Việt Nam có một tác phẩm văn học là Truyện Kiều viết về pháp đình: một phiên tòa có bị đơn, có nguyên đơn, lại có cả người biện hộ tức là vai trò của một luật sư, ông quan tòa. Nguyên đơn có đơn gửi tòa: “Sốt gan ông mới đơn quỳ cưa công”. Tòa án có trát triệu tập đương sự: “Phủ đường sai lá phiếu hồng thôi tra”. Phiên tòa được khai mạc cả nguyên đơn, bị đơn, người biện hộ đều có mặt:

Cùng nhau theo gót sai nha

Song song đến trước sân hoa lạy quỳ

Quan tòa xử án là một người: “trông lên mặt sắt đen sì”. Ông quan tòa quát tháo, tạo không khí quyền lực, của pháp luật và tôn nghiêm của phiên tòa:

Lập nghiêm trước hãy ra uy nặng lời.

Nghĩa là ông quát tháo, hạch hỏi, thôi tra buộc tội tội phạm (là Thúy Kiều): “ mà con người thế ra người đong đưa- tuồng chi hoa thãi hương thừa- mượn màu son phấn đánh lừa con đen”. Tội của Thúy Kiều là gì: “tội đong đưa”, “tội đánh lừa”, “tội hoa thải hương thừa” và chủ ý lừa gạt vì người bị lừa là “gã kia dại nết chơi bời” (nếu khôn nết chơi bời chắc không bị lừa!”)

Ở phiên tòa này chỉ có quan tòa buộc tội, bị đơn là nàng Kiều không được trình bày, giải thích gì cả. Và quan tòa tuyên án luôn. Cái cách tuyên án của ông xem ra cũng kỳ cục quá. Chính ông khi luận tội Thúy Kiều đã thừa nhận:

Suy trong tình trạng nguyên đơn

Bề nào thì cũng chưa yên bề nào

Nghĩa là mọi sự chưa rõ ràng, dứt khoát, ấy mà ông cứ tuyên án nhưng là tuyên án nước đôi:

Một là cứ phép gia hình

Nghĩa là phạt đánh đòn thật đau.

Hai là lại cứ lầu xanh phó về

Hoặc là trả về lầu xanh. Theo luật pháp, nếu có tội thuộc khung hình phạt nào của luật (ở trên ông nói “phép công chiếu án luận vào” ) thuộc điều nào thì tòa xử theo điều ấy. Tại sao lại hoặc thế này một là hoặc là thế kia hai là và rồi “tội nhân” Thúy Kiều vì kinh sợ lầu xanh nên chọn điều một là:

Yếu nhân xin chịu trước sân lôi đình.

Một tay gây dựng cơ đồ...

Nàng chấp nhận xử bị đánh theo lời tuyên án. Thế là quan tòa tuyên án “cứ phép gia hình” bằng cách chập ba cây roi làm một để đánh đập Thúy Kiều đến nỗi “Một sân lầm cát đã đầy”, “Gương mờ nước thủy mai gầy vóc sương”…Thế rồi có một luật sư xuất hiện biện hộ cho Thúy Kiều ở phiên tòa nhưng lại là nạn nhân của vụ kiện, ấy là Thúc Sinh. Chứng kiến sự đánh đập tra tấn tàn nhẫn của quan tòa, chàng đã minh oan cho Thúy Kiều và nhận tội về mình:

Khóc rằng oan khốc vì ta

Có nghe lời trước chẳng đà lụy sau

Cạn lòng chẳng biết nghĩ sâu

Để ai trăng tủi hoa sầu vì ai.

Hóa ra trước khi Thúc Sinh cưới Thúy Kiều nàng đã từ chối, nàng đã khuyên nhủ Thúc Sinh:

Thiếp như hoa đã lìa cành

Chàng như con bướm liệng vành mà chơi

Chúa xuân đành đã có nơi

Chơi bời thôi. Chàng đã có gia đình, đừng tính chuyện cưới vợ lẽ. Trước lời cầu hôn tha thiết của Thúc Sinh: “tấm riêng riêng những nặng vì nước non”, Thúy Kiều đã nói rõ, chàng đã có vợ: “Vả trong thềm quế cung trăng- chủ trương đành đã chị Hằng ở trong”.

Thúy Kiều biết làm vợ Thúc Sinh là tranh chồng người khác, phá hoại hạnh phúc gia đình người khác. Nàng xác định, nếu lấy Thúc Sinh là:

Trăm điều ngang ngửa vì tôi

Thân sau ai chịu tội trời ấy cho

Thậm chí nàng đã nghĩ xa hơn là chàng còn bố vậy đã hỏi ý kiến bố chưa, bố có đồng ý và có thương không mà nói chuyện cưới vợ lẽ:

Ở trên còn có nhà thung

Lượng trên trông xuống biết lòng có thương

Nghĩa là Kiều đã cố hết sức mình để không phạm tội. Nàng biết, nếu sự việc vỡ lở thì sự việc khôn lường là: “lại càng dơ dáng dại hình”. Nàng phải chịu nhưng sẽ là nghiêm trọng hơn, đấy là ảnh hưởng đến gia đình Thúc Sinh:

Đành thân phận thiếp ngại danh giá chàng.

Nhưng Thúc Sinh đã không nghe lời Kiều khuyên bảo. Chàng yêu Thúy Kiều thật lòng. Bị nàng từ chối, Thúc Sinh tuyên bố là chàng chịu mọi trách nhiệm về sau.

Đường xa chớ ngại Ngô Lào

Trăm điều hãy cứ trông vào một ta

Rồi ghê gớm hơn, quyết liệt hơn là Thúc Sinh đòi tự tử nếu Thúy Kiều từ chối:

Đá vàng cũng quyết phong ba cũng liều

Và rồi Thúy Kiều phải chấp nhận cuộc hôn nhân để dẫn đến tội mà hôm nay nàng bị quan tòa xét xử ( ngoài những lời thề thốt của một gã con trai đi tán gái mà Thúc Sinh đã nói, đã thề nguyền và hứa rất kêu trên đây thì quả tình Thúc Sinh rất yêu Thúy Kiều, để rồi sau này mối tình ấy được Nguyễn Du viết nên đoạn thơ tình bất hủ hay tuyệt vời khi Thúc Sinh chia tay Thúy Kiều về thăm vợ cả “vầng trăng ai xẻ làm đôi – nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường).

Khi Thúc Sinh trình bày tại tòa và khẳng định Kiều không có tội, và nếu có tội là do Thúc Sinh gây nên:

Tại tôi hứng lấy một tay

Để nàng cho đến nỗi này vì tôi.

Quan tòa mới biết là nàng đã bị xử oan. Nhưng xưa nay ở xứ ta, có vị quan nào biết sai và lại nhận lỗi về mình. Ngài chỉ “dẹp uy mới liệu cho bài vân vi”, chỉ thừa nhận rằng Thúy Kiều “trăng hoa dường cũng thị phi biết điều”. Rồi khi nghe Thúc Sinh trình bày rằng “theo đòi vả cũng ít nhiều bút nghiên” thì ông quan tòa có lý do để xử lại vụ án. Cũng là ông quan “trông lên mặt sắt đen sì” nhưng lại thích và yêu văn nghệ. Ông xử án lạ lùng theo cách của ông mà chắc chắn không có điều khoản nào ghi trong bộ luật nào cả:

Cười rằng đã thế thì nên

Mộc già hãy thử một thiên trình nghề

Cô biết làm thơ à? Thì thử làm một bài thơ vịnh cái gông xem sao. Thúy Kiều đã làm bài thơ vịnh cái gông đang đeo ở cổ nàng. Với tài thơ của mình nàng đã làm cho quan tòa kinh ngạc và kính phục:

Khen rằng đáng giá thịnh Đường

Tài này sắc ấy nghìn vàng chưa cân.

Kể lời đánh giá ấy cũng xứng đáng với tài và sắc của Thúy Kiều, nhưng thú vị hơn là ông quan tòa đã xóa án oan cho Thúy Kiều và tuyên án lại:

Thực là tài tử giai nhân

Châu Trần nào có Châu Trần nào hơn.

Thôi đừng rước dữ cưu hờn

Làm chi lỡ dịp cho đờn ngang cung.

Ông quan tòa đã xử hòa mà không sợ chống án hoặc kháng cáo bởi ông biết người Việt Nam xưa nay không ai thích kiện cáo. Mà như Karl Marx nói: Pháp luật là của giai cấp cầm quyền…cho nên quan đại diện cho giai cấp cầm quyền muốn xử thế nào thì xử.Vả lại ông quan tòa yêu văn thơ này thừa hiểu tâm lý người Việt Nam sống với nhau: “Một trăm cái lý không bằng một tí cái tình” cho nên ông mới phán:

Đã đưa nhau đến cửa công

Bề ngoài là lý song trong là tình

Không những ông không buộc tội, xử tội ai cả, mà còn đưa ra hướng giải quyết cho đương sự:

Dâu con trong đạo gia đình

Thôi thì dẹp nỗi bất bình là xong.

Và kết quả vụ kiện là “Thúc Ông thôi cũng dẹp lời phong ba” để rồi ông quan tòa lại đứng ra làm chủ hôn cho Thúy Kiều và Thúc Sinh:

Kíp truyền sắm sửa lễ công

Kiệu hoa cất giá đuốc hồng ruổi sao.

Hai phiên tòa này cũng là những minh chứng cho tình trạng xã hội, pháp luật và pháp đình cũng như thực trạng và khả năng của nền pháp lý Việt Nam thế kỷ XVIII. Nó cho ta thấy các phiên tòa xử án không dựa trên cơ sở pháp lý nào cả mà chỉ dựa trên cảm tính, thói quen tập quán của văn hóa làng xã, của cộng đồng dân cư lúa nước, lấy tình cảm đặt lên trên pháp luật và trên hết là tấm lòng nhân ái bao la của Nguyễn Du đã bênh vực Thúy Kiều trong cơn hoạn nạn.

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Báo nói