Ngày 15 tháng Tư, Bộ Tư lệnh Lực lượng Vũ trụ Hoa Kỳ (SPACECOM) thông báo, Nga đã thử một tên lửa đánh chặn chống vệ tinh trực tiếp. Theo Lầu Năm Góc, vụ phóng được thực hiện từ sân tập Plesetsk. Bộ Quốc phòng Nga không báo cáo về vụ phóng này và không đưa ra bình luận chính thức.
Tướng John Raymond, tư lệnh SPACECOM nói: “Thử nghiệm này của Nga là một ví dụ khác về thực tế rằng mối đe dọa đối với các hệ thống không gian của Mỹ và các đồng minh là có thật, nghiêm trọng và đang phát triển”.
Sự thật về những lo ngại của Lầu Năm Góc về vũ khí của Nga như thế nào? Và tại sao một thử nghiệm chưa được xác nhận có thể kích thích sự hốt hoảng của Tư lệnh Lực lượng Vũ trụ Mỹ đến thế?
1. Thế nào là tên lửa đánh chặn vệ tinh trực tiếp quỹ đạo thấp?
Tuyên bố của SPACECOM đề cập đến tên lửa đánh chặn chống vệ tinh trực tiếp ở quỹ đạo Trái đất thấp (Tiếng Anh chống vệ tinh trực tiếp: DA-ASAT).
DA-ASAT bao gồm các hệ thống phòng thủ tên lửa có thể tấn công trực tiếp các mục tiêu trên quỹ đạo Trái đất thấp từ bề mặt Trái đất. Các vệ tinh bay trên quỹ đạo cách mặt đất từ 160 km đến 2000 km thuộc quỹ đạo Trái đất thấp và chúng đều là những vệ tinh phục vụ chính cho quân sự, kinh tế, văn hóa....
Nói như vậy có nghĩa là đã có hệ thống tấn công gián tiếp vệ tinh ở quỹ đạo Trái đất thấp. Thật vậy, từ năm 1960, gần như đồng thời Mỹ và Liên Xô đã có phương tiện để tấn công hiệu quả vệ tinh và tên lửa ICBM trên quỹ đạo thấp này…
Vào thời điểm đó, khả năng của các thiết bị điện tử trên tên lửa rõ ràng là không đủ để điều khiển động cơ đánh chặn chính xác tới mục tiêu, vì vậy cả hai đối thủ trong Chiến tranh Lạnh đều chọn cùng một giải pháp: đầu đạn hạt nhân theo nguyên tắc, thay vì bắn trúng hay gây hủy hoại mục tiêu ở bán kính 1m thì vụ nổ hạt nhân sẽ gây ra kết quả đó trong bán kính 200m.
Tuy nhiên, cách tiếp cận như vậy sẽ có một nhược điểm. Bất kỳ vụ nổ hạt nhân vũ trụ nào cũng gây bùng nổ của tầng điện ly trái đất trong nhiều ngàn km xung quanh, xảy ra do bức xạ gamma từ vụ nổ.
Lúc đó, tầng điện ly của trái đất trở nên mờ đục đối với sóng vô tuyến khiến tất cả các radar, dù là của địch hay ta, trong điều kiện như vậy chỉ đơn giản là bị “mù”. Ngoài ra, liên lạc với các vệ tinh tạm thời bị mất và nhiều thành phần điện tử bị hỏng bởi xung EMP, cả trong không gian và trên Trái đất dẫn đến địch hay ta đều bị “điếc”.
Rõ ràng, cách này chỉ xảy ra khi có một cuộc tấn công hạt nhân lớn, nhưng để đáp lại vụ phóng, ví dụ, tên lửa có độ chính xác cao với đầu đạn thông thường…thì sự bảo vệ như vậy có vẻ quá mức. Thật vô nghĩa khi bắn vào những con chim sẻ bằng “pháo hạt nhân” - sẽ có nhiều thiệt hại cho cả chính mình.
Tại Liên Xô vào những năm 1980, hệ thống phòng thủ chống không gian (chương trình “Máy bay chiến đấu vệ tinh”) và đến thời Nga – Putin đã có các máy bay như MiG-41 diệt vệ tinh và các vệ tinh có chức năng diệt các vệ tinh khác mà Mỹ đã báo động coi đó là “vệ tinh thám sát”…
Vào tháng 9 năm 1985, Mỹ sử dụng tên lửa chống vệ tinh ASM-135 ASAT có tính cơ động cao được phóng từ máy bay chiến đấu F-15 (tấn công gián tiếp) đã bắn hạ vệ tinh vật lý thiên văn khoa học Solwind ở độ cao 555 km. Vào tháng 2 năm 2008, vệ tinh quân sự US-193 đã bị phá hủy thành công bởi một tên lửa phòng thủ SM-3 của hải quân Mỹ ở độ cao 247 km.
Vào tháng 1 năm 2007, Trung Quốc sử dụng tên lửa chống vệ tinh phóng từ vũ trụ Xichang, đã bắn trúng tàu vũ trụ khí tượng Fengyun-1C ở độ cao 865 km. Kết quả là, một đám mây gồm hơn 2000 mảnh vỡ được hình thành trên quỹ đạo, buộc tàu vũ trụ phải thực hiện các cuộc diễn tập trốn tránh.
Vào tháng 3 năm 2019, Ấn Độ đã bắn hạ vệ tinh quân sự của mình, microsat-R, trên quỹ đạo với độ cao khoảng 270 km.
Bỏ qua Trung Quốc và Ấn Độ, hãy xem hệ thống tên lửa đánh chặn trực tiếp vệ tinh và ICBM của Mỹ như thế nào để nó trở thành một con át chủ bài chiến tranh…
2. Vũ khí biến thế giới trở về thời đồ đá…
Để thực hiện ý đồ chiến lược “tấn công toàn cầu bất ngờ”, Mỹ đã tích cực tìm kiếm các giải pháp thay thế tấn công gián tiếp như sử dụng tia laser mạnh, nhưng cồng kềnh, phụ thuộc thời tiết, nên ý tưởng phá hủy các vệ tinh với sự trợ giúp của một đầu đạn đánh chặn động học khí quyển - một đầu đạn đặc biệt được phóng từ bề mặt trái đất bằng một tên lửa cổ điển.
Đầu đạn của một tên lửa như vậy là một bộ máy cơ động nhỏ di chuyển trong phần cuối cùng của quỹ đạo với tốc độ riêng khoảng 2,7 km/s. Ở tốc độ này, nó không cần mang chất nổ lao vào một mục tiêu, như ICBM hoặc vệ tinh gần Trái đất với tốc độ ngày càng lớn…Và, với một đầu đạn chỉ nặng khoảng 30kg - như các thử nghiệm của Mỹ đã chỉ ra, năng lượng như vậy là khá đủ không chỉ để phá hủy một vệ tinh mỏng manh mà còn phá hủy một đầu đạn ICBM được bảo vệ đầy đủ.
Để thực hiện nguyên tắc đánh chặn động học, nó đòi hỏi ít nhất hai điểm thiết yếu từ một đầu đạn đánh chặn. Đầu tiên, việc phóng tên lửa sẽ bắt đầu trong quá trình đánh chặn, và không phải sau ICBM hoặc vệ tinh.
Thứ hai, đầu đạn đánh chặn đòi hỏi độ chính xác chưa từng có trong việc bắn trúng mục tiêu. Tức là nó cần phải đi vào mạch của ICBM hoặc vệ tinh, nếu không, nguyên tắc hiệu ứng động học đơn giản sẽ không hoạt động.
Để có điểm thứ hai, sự phát triển của đánh chặn động học trực tiếp, ngay cả ở Mỹ, chỉ được thực hiện vào đầu những năm 2000, khi các thiết bị điện tử trở nên nhỏ gọn để phù hợp với thân đầu đánh chặn. Và tốc độ phải cao, để đảm bảo điều chỉnh chính xác đầu đánh chặn khi nó tiếp cận mục tiêu bay rất nhanh.
Ban đầu, việc đánh chặn động học được thực hiện đối với hệ thống tên lửa GBI của Mỹ được lắp đặt ở Alaska và California vào năm 2005.
Thế hệ đầu đạn đánh chặn đầu tiên vẫn còn cồng kềnh: đầu đạn tên lửa GBI nặng khoảng 64 kg, và để mang lại cho chúng tốc độ ban đầu mong muốn, chúng phải sử dụng tên lửa đánh chặn phóng từ mặt đất được thiết kế đặc biệt cho chúng. Việc sản xuất tên lửa GBI trở nên rất đắt đỏ…nên trong 2 khu vực trên Mỹ chỉ có 44 tên lửa GBI.
Vào giữa những năm 2010, Mỹ đã quyết định phát triển tên lửa SM-3 nhỏ gọn hơn, rẻ hơn và đặc biệt là chúng có thể sử dụng bệ phóng Mk-41 tiêu chuẩn. Chính từ bản cài đặt này, người Mỹ đã phóng mọi thứ mà chúng ta chỉ thấy và nghe được trong tin tức: tên lửa hành trình Tomahawk, tên lửa phòng không RIM-7 Sea Sparrow và tên lửa phòng không SM-2 cùng những lời cáo buộc lẫn nhau giữa Nga và Mỹ xung quanh việc Mỹ rút khỏi INF…
Tuy nhiên, việc sử dụng một tên lửa nhỏ gọn mới, phù hợp để phóng từ Mk-41, có những nhược điểm. Do trọng lượng ban đầu của tên lửa SM-3 hóa ra rất nhỏ, chỉ 1,5 tấn, cho nên tương đương, khối lượng của thiết bị chặn động học giảm xuống còn 30 kg - so với 64 kg tính theo GBI.
Trên quỹ đạo phẳng, phạm vi của đầu đánh chặn động học SM-3 bị giới hạn chỉ 500 km và chiều cao tối đa của thiệt hại đối với vật thể giảm xuống còn 250 km.
Chính vì lẽ đó, về chiến thuật, các bệ phóng tên lửa SM-3 phải được đặt càng gần biên giới của “đối thủ tiềm tàng”, ví dụ như Nga và Iran, càng lợi hại… nếu không, chúng sẽ vô dụng trong việc chặn ICBM hay vệ tinh bay độ cao trên 300km.
Và đó cũng là lý do Nga phản đối gay gắt việc Mỹ đặt các bệ phóng Mk-41 tại châu Âu ở các quốc gia sát Nga như Ba Lan với chiêu bài “phòng thủ”….
Nếu như, hoạt động của con người hiện đại đều phụ thuộc vào những thứ mà con người đã đưa vào khoảng không vũ trụ hầu như trên mọi lĩnh vực từ kinh tế, quân sự, văn hóa chính trị…mà một ngày nào đó tất cả mọi thứ trên đó bị mất đi thì con người trở về thời kỳ đồ đá…
Và thật không may, Mỹ - siêu cường số 1 thế giới đã có “công cụ” để có thể khiến cho con người hiện đại trên thế giới đang sống trở về thời kỳ đồ đá bất kể lúc nào.