Đó không phải là phố đêm mà bạn vẫn gặp đâu đó trong những thị thành. Đó là một phố đêm mịt mùng trên biển. Bạn có thể nhìn thấy những dãy đèn đêm nhấp nháy trên biển và gửi vào đó tâm tư mộng mơ nhưng với tôi đó là một phố đêm nhọc nhằn mưu sinh. Những ánh đèn màu nhấp nháy ấy hối thúc tôi tìm gặp những ngư dân câu mực. Chỉ khi được chuyện trò với họ tôi mới được lý giải rõ ràng nhất, đầy đủ nhất về niềm tin, tình yêu và sự kiên định với biển của ngư dân nơi đây.
Không biết nghề câu mực xuất hiện từ đời nào, chỉ biết ở Cẩm Nhượng, bất kỳ người đàn ông nào đi biển cũng hiểu thuộc tính của con mực và nghề câu mực được đa phần đàn ông lựa chọn. Dù ngày nay, nhiều người đã bỏ nghề nhưng đến thời điểm hiện tại, số lượng thuyền chuyên nghề câu mực cũng vẫn đang chiếm hơn 2/3 tổng số thuyền đi biển của Cẩm Nhượng (170/240 thuyền).
Để câu mực, những người đàn ông Cẩm Nhượng phải đi thuyền cách bờ từ 8 – 10 hải lý và cũng tuỳ vào độ xa gần mà các tàu sẽ nhổ neo từ 4 – 6 giờ chiều và trở về khi rạng đông chưa ló. Những thuyền lớn thì người ta sẽ đi đôi, thường là cha con hoặc anh em, còn thuyền thúng thì mỗi người một thuyền.
Những con thuyền câu mực dù to hay nhỏ đều gắn lên đó những cái bóng đèn pha công suất lớn. Và khi bóng đêm phủ đen mặt biển, các “cần thủ” sẽ pha đèn, bắt đầu giăng câu. Nếu nghỉ đêm ở Thiên Cầm, khách du lịch sẽ nhận được những xúc cảm thơ mộng khi ngắm biển đêm với một “phố biển” lung linh ánh đèn. Thơ mộng là thế nhưng phía ấy là bao nỗi nhọc nhằn mưu sinh. Lựa chọn nghề câu mực cũng là lựa chọn với việc ăn đong niềm vui, nỗi buồn hàng ngày.
Người đàn ông mà chúng tôi gặp đầu tiên ở trên bãi neo thôn Chùa có dáng dấp khá phong lưu. Năm nay đã 60 tuổi, đi câu mực đã phải dùng đến kính sáng nhưng ông Nguyễn Văn Hạnh (thôn Phúc Hải) vẫn rất đam mê nghề này. Ông nói, những đứa trẻ sinh ra ở biển, chưa biết đi đã theo cha mẹ lênh đênh trên biển rồi, không chừng biết bơi trước khi biết đi. Biển là tình yêu mặc định. Thế nên dù cực nhọc, dù khó khăn, dù có những thời điểm cùng cực tưởng như phải nghỉ nghề thì ông vẫn nuôi giữ niềm tin, tình yêu để cuối cùng nghề vẫn trở lại.
Vào những ngày mưa gió, không nhổ neo cho thuyền ra biển là ông Hạnh lại đứng ngồi không yên. Ông nhớ tiếng máy tàu nổ ran trên biển, nhớ tiếng gọi nhau ơi ới của người làng, nhớ tiếng con mực quẫy trong khoang thuyền. Nhớ những đêm trăng thanh, nướng vội con mực, lai rai cùng con trai trên thuyền câu. Ông nói, trời lặng thì ít mực lắm nhưng ông vẫn cùng con trai ra biển. Có khi về thuyền không, có khi chỉ đủ tiền dầu nhưng không đi không yên được. Dù ông không nói ra nhưng tôi biết, ông đã dành cho biển một tình yêu máu thịt. Và tôi biết, còn sức khoẻ ông sẽ còn nổ máy vươn khơi.
Vừa dọn rửa, sửa sang lại con thuyền, ông Hạnh vừa tâm sự: “xưa kia chúng tôi đi câu mực cực khổ hơn bây giờ nhiều, thay vì đi xuồng gắn máy có đèn pha sáng như bây giờ, chúng tôi phải chèo tay và đốt đuốc soi để câu. Thế nhưng trước đây “lộc” biển vẫn nhiều hơn bây giờ thành thử bây giờ thế hệ trẻ cũng không mấy mặn mà với nghề này nữa”.
Đàn ông Cẩm Nhượng, khi đã lập gia đình thì cũng đồng nghĩa với việc phải “riêng” thuyền để đi biển một mình. Có thâm niên đi biển chưa lâu nhưng Nguyễn Bá Anh (thôn Hải Nam) đã sớm là một trong nhưng ngư dân “cứng cựa” của làng biển Cẩm Nhượng. Một mình lênh đênh trên biển với con thuyền thúng nhỏ nhưng ngày nào Bá Anh cũng là một trong những người câu được nhiều mực nhất.
Bá Anh cho hay, do thuyền nhỏ nên anh chỉ ra đến Hòn Én rồi neo thuyền giăng câu. Tuy là mỗi người một thuyền nhưng “phố đêm” trên biển cũng rộn rã lắm. Tầm 21h đêm là thời điểm mực bắt đầu đi ăn và trước đó các “cần thủ” bật đèn để soi mặt nước xem độ đục trong để lựa chọn mồi câu. Con mực là loại sinh vật khá dễ hiểu, nó chỉ ăn mồi tôm hoặc mồi cá và nước đục thì thích mồi đậm màu, nước trong thích mồi nhạt màu. Cứ thế, ngư dân sẽ lường theo con nước mà thả mồi.
Đi biển là nghề vất vả, đi biển một mình trong đêm tối lại càng vất vả hơn, thế nhưng trong những chuyện trò với ngư dân câu mực, chúng tôi không hề nghe họ nói về nỗi cực nhọc, chỉ cảm nhận được ở họ một tình yêu kỳ lạ với biển. Có những chuyến đi biển trở về đầy khoang, có những chuyến trở về tay trắng nhưng hình như họ đã quen với điều đó nên không lấy làm buồn vui. Tôi nhận ra rằng, người biển rất dễ chấp nhận. Với họ, niềm vui, nỗi buồn cũng tựa như sóng bể, khi hiền hoà khi dữ dội, khi vồ vập, khi xa cách. Và đó là lẽ tự nhiên. Tự nhiên như chính tình yêu, sự gắn bó cuộc đời với biển cả của họ.
“Ngước biển” là một từ không có trong từ điển tiếng Việt, nó được sinh ra từ tập tục đi đón chồng trở về từ biển của người dân Cẩm Nhượng. Ở đó, phía sau những người đàn ông đi biển một mình là những người đàn bà luôn sẵn sàng đứng đợi trên bờ. Họ đôi khi làm nên một rạng ngày huyên náo ở chợ Cồn Gò, đôi khi làm nên những khoảng lặng bình yên ngay bãi neo trước làng mình.
Nơi chúng tôi đến là bến thuyền trước thôn Chùa, cách trung tâm du lịch Thiên Cầm chừng 1km. Ở đó con đường cát năm nào đã được bê tông hoá, những lối đi xuống biển cũng đã được xây thành bậc thang nhưng bóng những người đàn bà “ngước biển” thì vẫn dáng hình ấy. Mỏng manh và lam lũ. Và cả nỗi cô đơn vằng vặc.
Trong ánh ngày chưa rõ, bóng họ nhoè trong bóng nước. Lặng phắc và mòn mỏi. Tôi cứ nhìn theo bóng dáng những người phụ nữ ấy và mường tượng những đêm khuya vò võ khi những người chồng đã ra biển, khi những mệt nhọc của công việc đã tạm ngưng. Bao nhiêu giấc ngủ được bình yên khi chồng một mình nơi biển cả? Chắc hẳn, ngay cả trong giấc mơ, những mối lo lắng, những đợi chờ, hy vọng cũng thấp thỏm không yên.
Bà Hoàng Thị Lan ở thôn Chùa làm vợ của ngư dân Đinh Viết Xuân đã gần 40 năm. Đó cũng là chừng ấy năm bà đứng đợi chồng trên biển. Cứ ngày nào chồng đi biển thì cứ 3h sáng là bà đã ra đứng “ngước”. Bà nói, mấy chục năm nay tôi đã quen giấc ấy rồi. Những hôm chồng không đi biển cũng giờ đó là dậy sửa soạn cơm nước rồi. Những hôm chồng đi câu thì giấc ngủ càng trở nên xấp xổm. Biển động thì lo về sự hiểm nguy, biển lặng thì lo thất bát. Những người “ngước biển” như chúng tôi, vì thế “ngước” cả niềm vui, nỗi buồn từ biển vào lòng mình.
“Ngước biển” trên bãi neo thuyền thôn Chùa còn có những người vợ rất trẻ, từ làng quê khác lấy chồng về đây, “nhập gia tuỳ tục” theo đàn bà vùng biển này. Họ cũng rẽ màn đêm, ra biển từ tinh mơ sáng và cũng lo cân kéo, bán mua rồi cùng chồng dọn rửa thuyền chuẩn bị cho chuyến đi câu mới.
Sinh năm 1994 ở một làng quê trồng lúa, sau 7 năm làm dâu ở làng biển Cẩm Nhượng, cô gái trẻ Trương Thị Hương đã trở thành người phụ nữ miền biển thực thụ. Hàng ngày, Hương buôn bán tạp hoá phụ chồng nuôi 2 đứa con ăn học. Đêm đêm khi chồng ra biển Hương lại ra bờ ngóng theo những ánh đèn nhấp nháy ngoài xa và thấp thỏm lo lắng, thấp thỏm đợi chờ. Giấc ngủ thường đến rất muộn và kết thúc khi bóng ngày chưa rạng. Nhưng cũng không biết từ bao giờ, với Hương, đó không còn là nỗi nhọc nhằn mà đã trở thành một lẽ sống mà Hương nghĩ là duyên phận của cuộc đời mình.
Hương chia sẻ: “Nghề đi biển bấp bênh lắm. Dạo trước còn được nhiều “lộc” biển chứ độ này may lắm mỗi chuyến cũng chỉ được vài ba cân mực. Giá mực sống dao động từ 300 – 400 nghìn/kg, mực chết thì chỉ 250 – 300 nghìn/kg nên thu nhập từ biển cũng chẳng đáng là bao. Thế nhưng, người đàn ông lớn lên ở biển họ yêu biển lắm, họ không dễ dàng từ bỏ cái nghề gắn với họ từ trong trứng nước đâu, thế nên được mất gì, người vợ cũng phải vui vẻ. Có những ngày biết chồng buồn vì thất bát, tôi còn nán lại để phụ chồng lau rửa thuyền, chuẩn bị ngư cụ cho chuyến đi câu tới”.
Chúng tôi rời làng biển Cẩm Nhượng khi bình minh đã nhuộm hồng bãi biển. Những lao xao mua bán cũng theo tiểu thương đi về các chợ. Phía bãi biển, chỉ còn lác đác bóng những người đàn ông lau rửa thuyền và vài ba người vợ trở về, cầm trên tay mớ cá được chồng đánh thêm để dành làm thực phẩm trong ngày. Trên con đường bê tông ven biển, khách du lịch nghỉ đêm trong những khách sạn mới xây đã túa ra biển để bắt đầu kỳ nghỉ của mình.
Chúng tôi đưa tay vẫy tay chào họ như thể đang tạm biệt một vùng đất với những nét văn hoá giản dị, độc đáo đã gieo vào tâm tư chúng tôi những xúc cảm đẹp đẽ về biển và tình yêu kiên định với biển.
ảnh: Huy Tùng
video: hương thành