Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. (Ảnh tư liệu)
Không chỉ những người đang sinh sống trong lòng Tổ quốc mà những người con đang ở xa quê, khi bè bạn tụ tập nhắc tới mùa cốm mới, tiếng sáo diều cao vút tầng không, lại nhớ đến thắt ruột, thắt lòng khi mùa thu tới. Hà Nội mùa thu - Mùa thu Hà Nội, nơi mùa hoa sữa về ngào ngạt ấy, nơi mùa cốm thơm lừng ríu rít những bàn tay nhỏ ấy, cũng là nơi hồn thiêng sông núi đang cuộn về. Lịch sử dân tộc lại ánh lên sắc nắng từ Quảng trường Ba Đình.
Lồng lộng in bóng trên lễ đài trang nghiêm, Chủ tịch Hồ Chí Minh trìu mến nhìn mọi người và hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”. Những làn sóng âm thanh bỗng dào lên như sóng biển Đông, tất cả cùng đồng thanh đáp “Có”. Để từ giờ phút ấy, trong buổi chiều 2/9/1945, màu hoa tươi rực rỡ tràn ngập trong màu cờ đỏ sao vàng. Giọng của Người đầm ấm cất lên bản Tuyên ngôn Độc lập: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời tuyên ngôn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “rắn như thép, vững như đồng” vang vọng khắp năm châu bốn biển. Hàng vạn người đã vỡ òa hạnh phúc, khi Người dõng dạc tuyên bố: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thực đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Cả đất nước đứng lên, hàng triệu quốc dân đồng bào đều hướng về Quảng trường Ba Đình để truyền thêm sức mạnh của lòng yêu nước, sức mạnh của chính nghĩa, quyết đưa đất nước thoát khỏi xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Từ “mặt trời cách mạng” tỏa sáng Quảng trường Ba Đình mùa thu ngày ấy, mỗi phố phường Thủ đô Hà Nội đều là trận địa, chiến lũy, mỗi người dân đều là chiến sĩ. Hà Nội đứng lên kháng chiến, Hà Nội mang khí thế xung thiên hừng hực từ bản Tuyên ngôn Độc lập.
Hà Tĩnh vào thu. Ảnh Huy Tùng
Cả dân tộc Việt Nam đứng lên kháng chiến, một cuộc kháng chiến của những người yêu nước vĩ đại nhất, gian khổ nhất, nhưng cũng đầy vinh quang. Tất cả cùng hành quân, cùng hát vang bài hát “Tiến quân ca” với niềm tin mãnh liệt. Từ sóng Hồng Hà gọi, từ mùa thu năm ấy gọi, nhân dân cả nước đều dấn thân mình vào cuộc kháng chiến trường kỳ, anh dũng, với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Những mùa thu kháng chiến tiếp nối đã “đúc” nên bao “tượng vàng” của những người mẹ anh hùng, những người chị, người vợ trung hậu, đảm đang, bất khuất, những cháu thiếu nhi thông minh và dũng cảm.
Nơi chiến khu Việt Bắc, nơi Bác Hồ nhiều đêm thức cùng trăng thu, suối nước, chính là nơi Người đã cùng với các đồng chí cán bộ Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta tạo thành những cuộc bão táp cách mạng. Sau Chiến dịch Việt Bắc thu đông 1947, những anh vệ quốc quân áo vải, chân không đi lùng giặc đánh đã khôn ngoan hơn nhiều, rắn rỏi hơn nhiều. Anh thắng giặc bằng tình thương đồng đội, anh thắng giặc bằng tình thương nhân dân. Nhân dân đã nuôi dưỡng anh lính Cụ Hồ, có sức khỏe dẻo dai vai trăm cân, chân ngàn dặm. Sức mạnh từ người lính, nhân lên sức mạnh của sư đoàn, binh đoàn hùng hậu. Sức mạnh ấy, để anh cùng đồng đội cõng pháo qua đèo, tấn công vào sào huyệt địch, thọc sâu vào lòng chảo Điện Biên, làm nên “thiên sử vàng chói lọi”. Điện Biên giải phóng rồi, núi rừng Việt Bắc thu sang cây rừng lá xanh hơn, gương thu xanh lồng trong gương suối biếc. Nhưng niềm vui chưa trọn, thanh gươm phi nghĩa của quân xâm lược Mỹ lại hiếu chiến rạch đôi dòng Bến Hải, cắt ngang bầu trời thu xanh lồng lộng của chúng ta.
Có biết bao nhiêu người ở bên kia bờ vĩ tuyến, ngắm nhìn người thương mà ứa nghẹn, đành gửi Câu hò bên bờ Hiền Lương và hẹn ngày về. Nước còn giặc, còn đi đánh giặc, chiến trường giục giã bước hành quân. Bên những dòng sông xanh thắm mùa thu, lại có bao nhiêu người mẹ tiễn con ra trận. Những đoàn quân đi trùng trùng điệp điệp, lớp cha trước, lớp con sau. Những người lính trẻ xuyên rừng Trường Sơn, lãng mạn vô cùng, hồn hậu vô cùng, ngắm ánh trăng thu và làm thơ bên cánh võng... Họ đã hiểu những mùa thu ở Trường Sơn, trong căn nhà binh trạm lợp lá trung quân, trong bữa ăn chia nhau từng đọt măng rừng, trong cơn sốt rét run người, đồng đội đốt lửa sưởi và dìu họ uống từng viên thuốc. Sốt rét tan, người lính ấy lại cuốn tăng, võng, khoác ba lô hăm hở ra chiến trường. Có biết bao nhiêu người lính ra đi rồi hóa thân mình vào đất. Khi ngã xuống, mắt anh lính trẻ vẫn ngước nhìn trời xanh, khát vọng gửi màu xanh hòa bình cho đất nước.
Chiến tranh đã đi qua hơn bốn thập kỷ, hỡi những người lính đang nằm trong lòng đất, các anh có nghe chăng tiếng thu lại về, trời thu đang xanh? Những mùa thu mới bừng bừng nhịp sống mới. Khát vọng của một đất nước đã đi qua nhiều cuộc chiến tranh, đã giành được tự do và độc lập, cả dân tộc đang vững bước dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, xây dựng một nước Việt Nam “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” như Bác Hồ hằng mong muốn. Chúng ta hãy nhìn kìa, từ non nước Cao Bằng đến mũi Cà Mau, đâu đâu cũng phố phường tấp nập, làng mạc sầm uất, đâu đâu cũng thấy những gương mặt người hớn hở và tự tin. Niềm tin sắt son với Đảng, niềm tin từ công cuộc đổi mới của Đảng, đưa nước thịnh, dân giàu. Không có kẻ thù nào ngăn cản được bước tiến của chúng ta. Mùa thu mới đang giục lớp trẻ xốc lại hành trang bước tiếp vào trận mới.
Tháng 8/2017