Nửa ngày chiến tranh

Truyện ngắn

Tôi bỏ lại giữa cánh đồng mù mịt khói

tuổi thơ cháy xém cánh diều…

Quốc Lãng là người ít tuổi nhất trong đám anh em bè bạn văn chương; cậu là cây bút mới vào nghề, luôn sôi nổi, hăm hở. Một đàn anh viết văn, mỗi lần bí đề tài sáng tác thường hứng thú kể về lão nhà văn nọ. Thường rất nhiều lần, để kịp một bài tùy bút hay cái truyện ngắn cho một tờ tuần báo, lão thường cuốc bộ tới tòa soạn với tệp giấy trắng trơn và lao luôn vô xưởng in. Cứ thế, lão hì hụi ngồi viết trong tiếng máy in chạy rầm rập rầm rập, xong trang nào lão quăng ngang cho người biên tập, rồi thợ xếp chữ, in luôn. Tài!

Quốc Lãng ngồi nhịp nhịp, cười ruồi:

- Chưa ăn thua chi! Tui từng có lần phải viết trong tình huống như này này: Một cái lưỡi lê sáng loáng cắm phặp xuống bàn. Một quả lựu đạn dằn trước mặt cái “cốp”!

*

* *

Suốt tuổi thơ Cu Lãng là đầy rẫy những trận “hú hồn hú vía”, những điều kỳ lạ mà nếu được sống thêm kiếp nữa, cậu cũng vẫn nhớ như chuyện mới hôm qua.

Năm ấy cu cậu mới vô lớp vỡ lòng trường làng. Những ngày tháng đó, người làng cậu chết bom chết đạn không kể hết. Chuyện sống rày chết mai coi như cơm bữa. Nhưng thiên hạ thường nhớ lâu nhất, nhớ đời là những cái chết “vô duyên òm”, chết oan chết uổng, chết như chơi!

Hồi mới đổ bộ, lính Mỹ còn lơ ngơ láo ngáo. Từng tốp “xí lô xí la” giữa đường làng, súng cứ chĩa ngang lăm lăm. Dân làng ai nấy sợ mất mật, chỉ lũ con nít là cứ rần rật chạy theo, vừa vỗ tay vừa hát: “Ô kê ôông Mỹ về làng/ Mụ Mỹ ở lại… dọn hàng ô kê!”… Với con nít là vậy, nhưng người lớn thì phải liệu hồn, nhứt là gặp mấy bác mấy ông bộ dạng lù lù vẻ khả nghi là họng súng máy xỉa liền: “Vi-xi! Vi xi!?” Ai biết khôn lắc đầu khoác tay nô nô là xong. Đừng có dại nghe như tụi con nít ô-kê ô-kê là oan mạng liền! Cả đoàn dài ngoằng có khi may lắm mới có mỗi anh lính thông ngôn người mình, kịp chạy tới giải thích thì “ôi thôi rồi!”. Cho nên già trẻ cứ lo dặn dò nhau, nhứt là với mấy người tới tuổi nghễnh ngãng.

Vậy mà mấy bữa sau mới bửng mắt đã nghe náo động tin bác Chắt “điếc” đang vác rựa phạng ra đồng bị bắn chết ngoài bụi tre gần bờ ruộng. Cả xóm xúm ra, bác Nậy lắc đầu, chắc là ô-kê ô kiếc chi đây rồi! Điếc lác mà, sợ chi súng ống! Bác Chắt gái hớt hãi ngã lăn ra, khóc mà nghe như cười: “Ui chao ôông ơi là ôông ơi! Ô kê cái chi mà ô kê!...”. Rồi cứ liên tiếp mấy ngày đám tang, bác cứ lào thào như mất hồn: “Ô kê chi mà ô kê!... Ôông ơi là ôông ơi…!”

Còn với cậu, số là năm đó dì cậu ở Lâm Đồng gởi ra cho anh em cậu mỗi đứa cái áo len mới, áo cậu hai màu xanh đỏ rực rỡ. Trong thư dì nói xanh xanh đỏ đỏ cho trẻ nhỏ nó ham. Mạ cậu tính cho mặc thử một chút rồi cất để dành Tết, cậu mừng rơn chạy ù tính qua khoe tụi thằng Cò thằng Sáo con chú Càn. Mới qua khỏi ngõ thấy mấy con chuồn chuồn ớt đậu gần bụi hóp, cậu nằm rạp xuống rình bắt. Bỗng từ trên trời liệng tới chiếc “xương sườn” ò ò sát rạt ngọn tre, thấy rõ cả hai gương mặt râu ria xồm xoàm, cặp mắt cú vọ sát khí, chuỗi đạn vàng choé và cái họng súng đen ngòm đang chĩa thẳng xuống nhắm ngay mình. Hoảng hồn, cậu vùng dậy co cẳng chạy, một luồng lửa đùng đùng khạc xuống, bụi hóp bật tung lên, đất bay rào rào trên lưng trên đầu, rồi cậu ngã sấp, không còn biết chi nữa!…

Cậu lơ mơ tỉnh lại trong tiếng la mắng te tát của chú Càn, em ruột cha cậu:

- Ui chao chị tính giết con chị, giết cháu tui rồi!

Chú nắm cái áo len mới cậu đang mặc trên người nói:

- Ui chao, xanh với đỏ! Chị biết là cái màu chi không?! Anh tui đi biệt tích không biết sống biết chết, còn hắn như trái giống đầu giàn. Chị tính…!

Mạ cậu vừa khóc vừa run bây bẩy, ôm cậu sờ soạng khắp người.

Minh họa: Nguyễn Đăng Phú

Cũng ngay buổi trưa hôm đó dưới bến sông, o Chanh con mụ Bưởi đầu xóm mặc áo hường đang khom lưng gánh nước. Cũng loạt rốc-két đùng đùng xả xuống. Mấy nhánh vông đồng gãy toác, rơi ùm ùm xuống bến. O ngã xuống buông trôi cả cặp thùng. Cả xóm chạy xuống vớt o lên vén áo vén quần, cũng may phước chưa bị trúng đạn, chưa can chi cả. O sợ mất hồn nên ngất xỉu, nằm liệt giường luôn mấy ngày, sau phải xuống bến cúng “hú hồn” o mới tỉnh lại.

Mấy bữa sau, cậu đang mải mê lui cui chặt ống hóp làm đạn cho khẩu súng tre chiều chơi bắn nhau thì mạ nắm tay kéo cậu vô hầm. Cậu vung văng. Mạ chỉ tay ra phía xa xa ngoài đồng - từng tốp lính Mỹ đang túa ra từ bụng mấy chiếc trực thăng.

Vô hầm là chuyện cơm bữa. Nhưng lần ấy, mệ ngoại cậu chủ động làm chuyện lạ lùng, cứ như bày tuồng hát bội khiến cả nhà nín cười nôn ruột. Ai đời, dì Lụa, dì Mơ của cậu đang đẹp mơn mởn như hai nụ hải đường trước sân, vậy mà mệ ngoại “hoá phép” một hồi thành hai mụ già trùm khăn, má bôi vôi, bôi lọ nghẹ, xấu đui xấu điếc như hai mụ phù thủy! Ngoại nói hồi Tây lùng, nhiều lần nhờ rứa mà thoát khỏi tay mấy thằng Tây đen Ma-Rốc! Cậu và hai đứa em cứ bò lăn ra mà cười. Ông ngoại lại nhắc chuyện hồi Tây lùng, ông cười khùng khục: “Cái quân tham mà ngu như bò tót! Lần đó tụi Tây xộc vô, cả nhà chui xuống cái hầm chìm đậy bằng tấm vạt tre ngụy trang. Ông nằm trên vạt trùm mền giả rên hừ hừ. Hắn dùng mũi súng giở mền quát “cờ lê măng xông” chi đó. Ông ôm bụng nhăn nhó lắc đầu. Tụi hắn lục lạo khắp nhà chẳng có chi, vịt gà cũng lùa xuống cái “hầm bí mật” sau hè. Mấy thằng đứng ngoài giàn bầu đang trái lủng lẳng, tụi hắn đo đo lựa lựa rồi rút lưỡi lê “đắt” một trái to, dài nhứt, trái bầu giống! Ui chao, ông hé mền dòm theo thằng Tây cao nghều, vác trái bầu dài ngoằng (chắc tính nấu canh ăn cả trung đội) bước sai sải vẻ đắc chí mà cười nôn ruột! Bầu giống mà ăn uống chi được! Hay là hắn đem về nước mần giống không biết!...”

Lúc sau, súng lớn súng nhỏ nổ long trời. Căn hầm rung lên, đất rớt ào ào như sắp sập. Mùi khói đạn xông vô nồng nặc, ngạt thở! Hai đứa em cậu cứ bấu áo mẹ gào lên oai oái, kêu khát. Chờ thưa tiếng nổ, ông ngoại cầm gậy lò dò tính chui ra lấy nước, cả nhà ngăn lại. Cậu liền lén bò tới đẩy bao trấu đậy miệng hầm rình rình chui ra. Nhìn hai gian nhà trên đã tan hoang thành đống gạch vụn. Cậu bò lum khum xuống bếp, tay vẫn kè kè khẩu súng tre buộc quai bằng dây bẹ chuối. Sờ túi áo, cậu tiếc hùi hụi mấy viên đạn hóp vừa rớt ra đâu mất. Tay xách ấm nước vừa lúp xúp chui vô chưa kịp kéo lại bao trấu đậy miệng hầm bỗng có tiếng giày thình thịch và một tràng tiếng Mỹ quát lên như ra lệnh! Ông ngoại cậu buột miệng: “Thôi chết rồi bay ơi!!!...”.

Trước mắt cậu là hai thân hình khổng lồ, một tay súng lăm lăm và một cánh tay đầy lông lá cầm quả lựu đạn dứ dứ vô miệng hầm. Cậu giật nẩy mình ú ớ: “Ơ!... Hàng! Hàng!”. Cậu dong hai tay lên với khẩu súng tre và… toét miệng cười! Cứ như mỗi lần chơi bắn nhau ngoài vườn gặp lúc hết đạn. Cặp mắt xanh lè và cái mồm đầy râu cũng… tròn o! Bàn tay lông lá bỗng khựng lại, chùng xuống, tay kia xoè ra vẫy vẫy…

Cả nhà cậu lần lượt chui ra khỏi hầm, ai nấy run lẩy bẩy! Cậu loay hoay sửa lại cây súng tre quàng qua vai rồi líu ríu theo bàn tay lông lá ngoắc ngoắc. Và họng súng đen ngòm đằng sau đẩy đẩy, lùa cả nhà khép vô hàng một. Hai cặp mắt xanh lè nhìn xoi xói vô mặt từng người rồi trao đổi gì đó với nhau bằng tiếng Mỹ, nghe có cả tiếng “vi xí vi xi!” chi đó. Bỗng ông ngoại cậu bước tới trước mặt tên Mỹ, cắp cây gậy vô nách, huơ tay: “Ở đây… đồng bào thường dân cả… không có vi xi vi xiếc chi hết!... Súng đạn như mưa, mấy ôông tính bắt bà con tui đi mô!?...”. Cái giọng ồm ồm “xí lô xí la” chi đó rồi khoác khoác tay chỉ qua hướng bên xóm Ngang.

Cả nhà cậu như một toán tù binh bị áp giải. Cậu đi đầu hàng, vai mang súng tre, sún răng, áo vạt cao vạt thấp, chân đất quần thủng đáy. Kế tới là mạ cậu tay dắt tay bồng hai đứa em dại, đứa khóc đứa la. Rồi tới dì Lụa, dì Mơ trùm đầu trùm cổ, mặt mày lọ lem, vận áo dài đen áo dài nâu thùng thình, lúm rúm. Cả hai dì lúc này trông không khác chi mấy mụ đàn bà Thượng trên núi mới về, thiếu một cái gùi sau lưng nữa là y như khuôn đúc! Mệ ngoại miệng nhai trầu, quần ống xăn ống xổ, đi sát hai dì. Ông ngoại kéo rê cây gậy ràng rạt đi sau cùng, vừa đi vừa lầm bầm: “Mả cha cái ông cố nội! Hết thằng Tây… chừ tới tụi bây!”.

Hai thằng Mỹ dẫn “toán tù binh” qua vườn mụ Chót bên xóm Ngang. Té ra, bà con cả xóm đều được lùa vô đây cả! Già trẻ ngồi lúm khúm cả góc vườn. Cả nhà mụ Chót cũng bị đuổi ra ngồi vật vạ sau vườn. Căn nhà xây bằng táp-lô mười lăm phân, kiên cố nhứt xóm của mụ bị chiếm làm “lô-cốt” cho tụi chỉ huy. Bộ ghế bàn chân chữ u được xoay ngang trông ra sân, đặt máy móc điện đài. Bốn năm thằng ra vẻ cấp trên ngồi chễm chệ nhai kẹo sing-gum, hút thuốc xì-gà, khói xanh um, đặc quánh. Ngoài vườn, mấy thằng Mỹ đen, đen bóng như mấy cái cột lim biết đi, súng gắn lưỡi lê đi lui đi tới lăm lăm như vừa bảo vệ đám chỉ huy, vừa coi chừng đám người không tấc sắt hộ thân.

Nhìn lui nhìn tới, xóm chỉ còn toàn mấy ông lụ khụ, mấy mụ răng đen mắt bét, phụ nữ với con nít. Đàn ông trai tráng đi hết cả rồi. Ông ngoại cậu lại cắp gậy đứng dậy, giọng khàn đục cố tình la to: “Cho tui hỏi một lần nữa, xóm ni không ai Việt cộng việt kiếc, vi xi vi xiếc chi cả, mấy ôông bắt ra đây mần chi?! Cho bà con tui về lo chạy giặc chạy giã! Sớm mơi tới chừ chưa ai có hột chi trong bụng!...”. Vừa nói tay ông vừa vỗ vỗ cái bụng lép kẹp. Ai nấy bưng miệng nín cười. Bác Nậy, bác Cằn, ông Hốt lào thào lên tiếng: “Toàn Mỹ với Mỹ không hà, không có lính thông ngôn, nói tụi hắn không nghe chi mô, ông ơi!...” Bác Nậy buông giọng liều: “Bà con mềnh chừ như cá nằm trên thớt rồi, kệ cha hắn muốn mần chi đó thì mần!”...

Ui chao! Cái mà “hắn muốn mần chi đó thì mần” đã xảy ra liền sau đó: Một thằng Mỹ đen được nháy mắt hất hàm, rồi hắn xăm xăm bước tới. Cặp mắt trắng dã nổi lên trên gương mặt đen thui đen mò, gườm gườm, xoi xói từng người. Mấy o mấy dì đã hóa trang đều ôm đầu gục mặt xuống. Một không khí nặng nề, căng thẳng tột độ. Cái họng súng có gắn lưỡi lê bắt đầu lừ lừ xỉa vô, từng người nữ bị tách, gạt qua một bên. Xóm gần mươi o thanh nữ, kể cả dì Lụa dì Mơ đều không thoát cặp mắt cá chết của hắn. Mấy o mấy chị cứ cố ôm đầu gối, cắn răng không dám hó hé. Chỉ có mấy người ôm con dại như mạ cậu là lén véo vô mấy đứa con mình cho đau, tiếng con nít đồng loạt khóc ré lên. Mấy người già bắt đầu vung tay la ó, chửi rủa. Ông ngoại cậu đứng lên, toàn thân run bần bật, miệng ông mấp máy rung rung chòm râu: “Mấy ôông… B...bb…ắ…n! B…ắn chết hết đi!!!... Đừng… mần rứa!...”. Sợ hắn không hiểu, ông cầm cây gậy như cầm súng lia qua lia lại trên đầu mọi người, thét ngọng cả tiếng: “Bắn đi! Bằn bằn bằn… Bằn hết đi!...”. Cả xóm nhao lên: “Bà con tui thà chịu chết!... Cứ giết hết đi!...”

Một thằng ra vẻ cấp trên trong nhà bệ vệ bước ra, miệng ngậm điếu xì-gà, khoác khoác tay như ra hiệu bà con bình tĩnh. Hắn khoác tay cho tên Mỹ đen bước lui. Cặp mắt xanh lè của hắn đảo qua một lượt rồi dừng lại ngay tấm lưng tròn lẳn của o Mực, con dâu mụ Nghé đang gục đầu ôm đứa con trai chưa đầy tuổi. O Mực mặc áo bà ba trắng, trái sống xổ trôn (lối áo tang) bằng vải tê-tơ-rông, và dường như o không cải trang chi hết. Hắn bước tới nắm tóc giật ngửa mặt o lên. Ôi chao, gương mặt o còn trắng hồng, mơn mởn như da trái đào sắp chín, trông còn sắc sảo hơn cả hồi chưa chồng. O cắn môi ôm ghì đứa con đang khóc ngất lên. Hắn rút lưỡi lê cái xẹt, kề vô cổ o, một tay xốc nách o kéo dậy. Cả xóm lại bùng lên như nồi cơm sôi. Giọng mụ Nghé riết róng: “Cứ ôm con cho chặt! Mực ơi! Chết thì chết, đừng chịu nhục con ơi!... Ui chao ơi!... Sanh ơi là Sanh ơi!... Con chết linh chết thiêng, ba hồn bảy vía con về đây mà cứu vợ cứu con nời!!!... Ui chao, chớ đời kiếp chi mà khổ như ri!...”

Chú Sanh là chồng o Mực, chú vừa mất chưa tròn năm mươi ngày. Cái chết của chú quá sức tưởng tượng khiến o chưa hết bàng hoàng, chưa nguôi ám ảnh. O phải gắng gượng nuôi con, chẳng thiết chi bản thân mình nữa. Nhưng khổ nỗi, cái gương mặt đẹp lạ đẹp lùng của o thì không đem mà giấu đi được. Ở quê cậu xưa nay thường người càng đẹp thì phải đặt tên thiệt xấu, cho “dễ nuôi”. Lúc nhỏ o tên Chó Mực, mọi người kêu: con Chó Mực! Tới tuổi thiếu nữ khi được kêu bằng o thì người ta bỏ chữ Chó. O đẹp tới mức, ngày mặc áo cưới sắp về nhà chồng, chị em trang điểm phấn son lên mặt o, ngắm lui ngắm tới rồi phải rửa bỏ. Gương mặt tự nhiên trời cho của o còn đẹp gấp mười lần tô son dồi phấn. Chú Sanh học giỏi, cũng đẹp trai khôi ngô nhứt làng. Năm đang học Đệ nhị chú đi hỏi cưới o rồi tính học tiếp vô tú tài. Nhưng thời cuộc đổi thay, giặc giã ập tới. Vợ chồng mới sống với nhau chưa đầy ba tháng, chú phải chạy qua phố, theo phong trào sinh viên tranh đấu rồi đi biệt lên rừng.

Đêm đó, súng nổ từng loạt đùng đùng phía bên xóm Hói. Sáng ngày người ta kéo ra ngã ba đường làng hai cái xác. Cả hai đều mặc độc quần đùi, thân hình, mặt mũi tay chân được bôi tuyền một màu xanh lá cây, trông như hai tượng gỗ sơn ô-liu. Người ra đồng kẻ đi chợ ai cũng ghé nhìn qua nhưng ai nấy chỉ đoán được cả hai người chắc còn trẻ, bởi nhìn thân hình còn chắc chắn, vâm váp... Gần trưa, dân vệ kéo hai cái xác đi chôn.

Lúc sáng o Mực cùng mấy chị em trong xóm cắp rổ đi chợ, cả mấy o cũng đứng từ xa dòm người chết rồi ai nấy bưng mặt chạy liền.

Trên đường từ chợ về, o Mực tự nhiên cảm thấy ruột gan mình bỗng nóng lên như ai đốt, trán o toát mồ hôi ròng ròng. Vừa tới đầu ngõ, o Mực đã nghe tiếng thằng Cu con o khóc ngặt khóc nghẽo, tiếng mệ nội đang hất hơ dỗ dành. O lật đật chạy vô ôm con cho bú, nhưng thằng bé cứ đẩy ra, khóc thét lên dữ hơn, khóc tới tím mặt tím môi không cách chi dỗ được. O ôm con khóc ròng theo. Lúc sau cả hai mẹ con lả người, lịm đi.

O mê man chập chờn thấy trời đang giữa khuya, một cái bóng bước nhẹ nhàng vô buồng o rồi đứng lại, im lặng. O với tay vặn ngọn đèn dầu treo bên cột nhà, bỗng hiện ra rõ ràng dáng người của chú Sanh mặc quần đùi, toàn thân một màu xanh lè, máu me ròng ròng. O hét lên thất thanh. Mẹ chồng o chạy tới thấy o rã rượi, mặt xanh như tàu lá. O lào thào kể lại chuyện vừa thấy. Mụ Nghé vừa nghe mặt mày cũng tái xanh tái xám, lật đật chạy ra sau vườn vừa thở hắt vừa run run kể lại với chồng. Ông Nghé nghe xong đứng lặng như tượng một lúc, cũng nghĩ, chắc o đi coi xác rồi bị ám ảnh, rồi tưởng tượng. Bần thần một lúc, ông vô xỏ cái áo đi thẳng qua nhà bác Nậy. Hai người bàn tính một hồi. Bác Nậy dặn dò ở nhà sắm sửa lễ cúng rồi bác tức tốc khăn áo xuống đò qua làng Vọng.

Gần chạng vạng, bác Nậy đưa về người đàn ông “xác vía” lạ hoắc chừng ngoài năm chục tuổi. Bắt đầu lễ cúng “cầu vía”. Chưa tàn tới nửa cây hương, cây “vía” bắt đầu rung lên nhè nhẹ, rồi từ từ mạnh lên (cây “vía” là cái áo cũ của chú Sanh được cuộn tròn lại). “Vía” chạy xuống nhà sau, vuốt ve mẹ con o Mực, o lại khóc ngất lên, thằng cu chừ không khóc nữa mà toét miệng cười. “Vía” vuốt ve ông Nghé, tới mụ Nghé, tới anh em trong nhà. “Vía” chạy vô buồng, đập đập chỉ giở rương quần áo, lật tới đáy rương, hiện ra bộ quần xanh áo trắng học sinh còn mới của chú Sanh. “Vía” chạy ra trước tủ sách vở của chú Sanh, đập đập vô cuốn “Toán Đệ nhị” nằm giữa chồng sách. Ông Nghé giở cuốn sách, bất ngờ “Thẻ học sinh” của chú có dán tấm ảnh đẹp trai nhứt (sau này làm ảnh thờ) hiện ra. Cả nhà khóc ròng. Lúc này ai nấy đều tin chắc mười mươi đúng là “vía” chú đã về.

“Vía” chạy ra sau hè nhà, đập đập chiếc xe kéo, cái cuốc, cái xẻng. “Vía” vái vái vuốt vuốt ông Nghé, giục cầm càng xe kéo đi. “Vía” chạy vô buồng vuốt vuốt o Mực đẩy đẩy đi, lúc này thằng Cu đã ngủ say. “Vía” quay ra vái vái vuốt vuốt bác Nậy đẩy đẩy đi.

Ra tới ngõ, trời tối bưng, “vía” phất phất chỉ kéo xe tắt đường ruộng (chắc sợ lính tráng tuần kích ban đêm. Với lại, ruộng mới gặt mùa tháng ba, đồng đang khô ráo).

Bốn con người với cỗ xe kéo lầm lụi, mò mẫm băng qua quãng đồng đêm mập mờ mấy ánh sao thưa lấp lóe.

Tới gò đất phía sau mấy bụi tre gần ngã ba làng, lờ mờ hiện ra hai mô đất mới đắp qua loa, sơ sịa. “Vía” đập đập lên mô đất phía ngoài, giục đào mau mau. Ông Nghé với bác Nậy van vái lầm thầm rồi người cuốc người xẻng. Gạt lớp đất mặt, xuống thêm lớp xẻng nhẹ nhàng, cái xác đã lộ ra. Chưa đầy mươi phút, hai người đã nhấc được cái xác cứng đơ lên xe, nhưng dòm lại còn thừa hai cẳng chân ló ra đàng sau thùng xe. Ông Nghé loay hoay chưa biết tính cách chi. Bác Nậy lo vun nấm đất lại như cũ. “Vía” lập tức phất phất chỉ o Mực bợ hai cẳng chân nâng lên, rồi giục mau mau lôi xe đi. Cứ qua một bờ ruộng thấp là bác Nậy với “xác Vía” bợ hai bên thùng xe nhấc đẩy phụ lên. O Mực lúp xúp đàng sau, khom người cầm chặt hai cẳng chân lạnh ngắt. Lạ lùng là từ lúc chạm tay vô, người o bỗng như có một luồng năng lực lạ thường, o chẳng có chút cảm giác run sợ chi cả.

Về tới nhà o mới ngã ra ngất.

Việc đầu tiên, Bác Nậy lấy xà phòng rửa ngay gương mặt. Ôi chao! Ràng ràng gương mặt của cậu Sanh thư sinh ngày nào. Trán rộng mũi cao, đôi chân mày rậm, mắt chưa nhắm hẳn. Đêm khuya khoắt, bác Nậy cấm cả nhà không ai được khóc lóc lớn tiếng, dễ bị lộ.

Mấy người dìu o Mực ra nhìn mặt chồng, run run vuốt mắt.

Chú được khâm liệm tử tế bằng bộ đồ học sinh còn mới lúc “vía” chú tìm ra. Ông Hốt tình nguyện cho mượn ngay “cỗ hậu sự” bằng ván sầu đâu ông đóng để dành đã mấy năm.

Chú Sanh được đưa ra yên nằm cạnh cây bồ quân ngay sau góc vườn, cây bồ quân đã gắn bó suốt tuổi thơ của chú!...

Tiếng chuông chùa xa đổ một hồi dài báo hiệu trời sắp sáng…

Thằng Mỹ đen lao tới rứt thằng bé khỏi tay o Mực. Mụ Nghé nhào vô ôm thằng cháu. O Mực ra sức vùng vẫy quyết liệt trong bàn tay lông lá to kềnh và giọng cười hô hố. Những tiếng la hét lại bùng lên như đám cháy.

Bỗng có tiếng súng “cắc cụp, cắc cụp” giòn giã nổ rất gần! Rồi “bùm! bùm!”… Mấy mụ lại kêu trời van vái: “Súng đạn mô… bắn vô đây dùm với! Cho chết hết một lần đi! Trời ơi!!”

Liền lúc đó, một thằng mang máy truyền tin chạy xồng xộc từ sau hè vô hét lên một tràng “xí lô xí la”, hình như có lệnh rút quân khẩn cấp. Thằng Mỹ liền buông tay o Mực. Lập tức cả tốp rụp rụp mang vác xí xô chạy ra đồng.

Có tiếng phần phật của trực thăng hạ cánh.

Cả xóm ngồi chết lặng một hồi lâu mới hoàn hồn. Rồi òa lên những tiếng lạy trời lạy đất...

*

* *

Bốn năm sau, Cu Lãng đi thi vô trung học. Đề bài thi môn Văn: “Em hãy kể lại một kỷ niệm sâu sắc, đáng nhớ nhất trong khoảng đời tuổi thơ của mình”.

Cậu cắm bút say sưa kể về cái buổi sáng, về nửa ngày chiến tranh “ly kỳ” ấy. Mải mê đến gần hết giờ vẫn chưa tới dòng kết.

Kỳ thi được huy động cả lực lượng cảnh sát dã chiến, cảnh sát áo trắng với súng lục dùi cui dày đặc. Nghiêm ngặt vậy mà lúc sáng thi môn Toán, cảnh xông xả ném tài liệu vô phòng thi cứ hỗn loạn như giặc.

Trống điểm hết giờ! Cả phòng thi còn mình cậu với thằng Kha ngồi cùng bàn đầu. Từ đầu giờ, cu cậu mới viết được mấy dòng, cứ ngồi cắn bút tới chảy dãi. Nó là cậu quý tử của ông thiếu tá biệt động quân, oai phong lẫm liệt khét tiếng, sáng nào đi học cũng có xe jeep đưa tới tận cổng trường. Hôm nay nó được cả tốp lính biệt động đưa đi thi, được chăm sóc như ông trời con. Nó ngồi trong phòng thi, bên ngoài mấy tay lính cầm ống dòm quân sự theo dõi từng cử chỉ. Có vẻ như, nó đậu hay rớt kỳ này là chuyện “sinh sát” của cả tốp lính vậy.

- Đã quá giờ quy định, yêu cầu thí sinh nộp bài! - Giọng vị giám thị vang lên.

“Choảng!!”. Cửa sổ bị giật tung, vỡ toang. Một bóng rằn ri vẻ mặt đầy sát khí lao vô phòng thi cắm phụp cái lưỡi lê xuống bàn, cầm quả lựu đạn dứ vô mặt hai vị giám thị và dằn cái “cốp”:

- Đứng yên! Khoan thu bài!

Tên lính biệt kích đưa tận tay thằng Kha một bài văn đã viết sẵn:

- Cứ chép vô, mau lên! Cứ bình tĩnh, có mấy chú!

Cậu ngẩng đầu lên. “Lại lưỡi lê với lựu đạn!” - Cái thứ cậu đang viết lui viết tới hồi chừ! Rồi cúi xuống viết tiếp câu cuối cùng của bài văn…

DƯƠNG ĐỨC KHÁNH

Nguồn: vannghequandoi

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Báo nói