Thơ chữ Hán - cõi tinh thần sâu thẳm của Nguyễn Du

(Baohatinh.vn) - Nhìn vào toàn bộ di sản Nguyễn Du, dễ nhận thấy thơ chữ Hán là nơi lưu giữ trung thực nhất đời sống nội tâm của ông.

Nếu Truyện Kiều cho thấy Nguyễn Du như một nghệ sĩ bậc thầy về tự sự, thì thơ chữ Hán lại là nơi ông nói trực tiếp với thời cuộc, với lịch sử và với chính mình. Các tập thơ chữ Hán đã khắc họa những trải nghiệm, suy tư và cảm thức thế sự của Đại thi hào. Có thể nói, thơ chữ Hán chính là cõi tinh thần sâu thẳm nhất của Nguyễn Du: nơi tâm trạng cá nhân hòa vào thời cuộc, nơi tiếng nói nhân văn gặp gỡ với tầm triết lý.

Học sinh Trường THPT Nguyễn Du hóa thân thành nho sĩ xưa trước không gian điện thờ Đại thi hào ở Di tích Nguyễn Du.

Khi tìm hiểu về thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nhiều người vẫn lấy những phân tích, đánh giá của học giả Mai Quốc Liên (1941-2024) làm kim chỉ nam. Ông từng cho rằng: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa. Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc nữa”.

Sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan, phải trải qua 10 năm gió bụi với những đoạn trường của chính mình, trong hoàn cảnh đó, Nguyễn Du cũng chứng kiến biết bao nhiêu phận đời đau thương. Bởi vậy mà cho đến khi ra làm quan với triều Nguyễn, ông đã dành tất cả tình yêu, sự quan tâm cho những con người đáng thương trong xã hội. Thế nên, nhiều bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du đã ghi lại đầy đủ những dằn vặt tinh thần của ông trong giai đoạn lưu lạc và bất lực trước biến động thời thế cũng như đằm sâu lòng thương cảm, dạt dào yêu thương.

Thơ chữ Hán được trưng bày tại Di tích Nguyễn Du

Ở “Thanh Hiên thi tập”, ông ý thức sâu sắc về thân phận ẩn lánh, không gặp được tri âm, không thực hiện được chí hướng. Bài “Tự thán” tiêu biểu cho tâm thế ấy: “Đoạn bồng nhất phiến tây phong cấp/ Tất cánh phiêu linh hà xứ quy” (Gió tây thổi ngọn bồng lìa gốc/ Không biết về đâu phiêu dạt đây). Nỗi cô độc mà Nguyễn Du diễn đạt không chỉ mang dáng dấp bi cảm cá nhân, mà còn phản ánh bi kịch của tầng lớp trí thức cuối thế kỷ XVIII: rơi vào khoảng trống lịch sử khi trật tự cũ suy sụp mà trật tự mới chưa thành hình. Chính trong hoàn cảnh ấy, thơ chữ Hán trở thành phương tiện để ông đối thoại với chính mình và với vận nước.

Ở “Nam trung tạp ngâm” - tập thơ được sáng tác trong giai đoạn ông được thăng hàm Đông các điện học ở Huế cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình - tâm thế hoài nghi và ưu tư về thời cuộc vẫn là nội dung cốt lõi nhưng được biểu thị qua cái nhìn giàu chiêm nghiệm hơn. Ở đây, Nguyễn Du đã vượt xa tâm thế than thở, đi đến mức độ khái quát về quy luật vận động của lịch sử. Tâm hồn ông dường như luôn bị lay động bởi những biến thiên vô định của thời cuộc và chính điều này làm nên chiều sâu triết lý cho thơ chữ Hán của ông.

Thời gian qua, BQL Di tích Nguyễn Du thực hiện dịch và xuất bản nhiều tác phẩm bằng chữ Hán của Nguyễn Du và danh nhân dòng họ Nguyễn Tiên Điền.

Tuy nhiên, sâu thẳm nhất trong cõi tinh thần Nguyễn Du phải kể đến “Bắc hành tạp lục” - tập thơ được sáng tác trong chuyến đi sứ Trung Hoa (1813-1814). Tập thơ cho thấy một tầm văn hóa rộng mở và khả năng tri nhận nhân loại theo chiều sâu đồng cảm hiếm có. Nguyễn Du không chỉ nhìn cảnh vật mà còn nhìn thấy lịch sử, nhìn thấy số phận con người, nhìn thấy sự thăng trầm của các triều đại và những đổi thay của thời cuộc.

Trong bài “Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ” kỳ 2, ông viết: “Cộng tiễn thi danh sư bách thế/ Độc bi dị vực ký cô phần/ Biên chu giang thượng đa thu tứ/ Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân” (Ai cũng khen thơ thầy muôn thuở/ Riêng ta thương phần mộ đìu hiu/ Thuyền sông thu nhớ thêm nhiều/ Buồn trông theo đám mây chiều Lỗi Dương). Đây không chỉ là lời thương cảm dành cho thi nhân Trung Hoa, mà còn là sự đồng cảm sâu xa với bi kịch của những kẻ tài hoa nhưng bị lịch sử vùi dập. Nguyễn Du nhìn thấy chính mình trong gương mặt của người xưa và cũng nhìn thấy bóng dáng của những trí thức bị cuốn vào vòng xoáy thời đại.

Điều đáng chú ý nữa là Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở việc tri ân các bậc hiền triết hay thi nhân, mà còn mở rộng cái nhìn đến những thân phận nhỏ bé nhất của xã hội. Những bài như “Sở kiến hành”, “Long thành cầm giả ca”… cho thấy sự nhạy cảm nhân văn vượt khỏi khuôn khổ thơ trung đại. Ở “Sở kiến hành”, ông viết: “Bất tri quan đạo thượng/ Hữu thử cùng nhi nương/ Thùy nhân tả thử đồ/ Trì dĩ phụng quân vương” (Không biết trên đường cái/ Có mẹ con đói khổ nhà này/ Ai người vẽ bức tranh đó/ Đem dâng lên nhà vua). Những câu thơ này cho thấy Nguyễn Du dành sự chú ý đặc biệt tới đời sống dân sinh - điều mà phần lớn thơ chữ Hán Việt Nam trước ông hiếm khi chạm tới.

Các bản Kiều và tác phẩm của Nguyễn Du bằng Hán - Nôm trưng bày tại Di tích Nguyễn Du.

Có lẽ cũng vì thế mà thiên hướng vịnh cảnh trong “Bắc hành tạp lục” không giống đặc điểm của dòng thơ đi sứ. Ở nhiều bài, thiên nhiên hiện lên không phải để tả cảnh mà để biểu đạt tâm trạng. Cảnh vật ở đây trở thành cấu phần của cảm xúc - một đặc điểm thi pháp góp phần làm nên bản sắc thơ chữ Hán Nguyễn Du.

Hầu hết các bài thơ vịnh cảnh trong “Bắc hành tạp lục” đều kết thúc bằng những nỗi buồn. Buồn cho thân phận nhọc nhằn (Chiếc thân vất vả không biết đến xuân; Đầu bạc còn phải đi giữa gió thu ngàn dặm; Người đi dưới ánh nắng gay gắt; Qua sông Hoàng Hà giữa một ngày gió tuyết…); buồn cho kiếp “dị hương nhân” cô đơn, lạc lõng (Xa nước mấy tuần, lòng như chết; Cùng chỉ hoa mai báo tin xuân/ Nhưng xuân có bao giờ đến với người ở nơi đất khách)…

Có thể khẳng định: thơ chữ Hán là cửa sổ quan trọng nhất mở vào nội tâm Nguyễn Du. Đây là nơi ông suy ngẫm về thân phận, thế sự, lịch sử và con người; nơi tính triết lý, tính hiện thực và tinh thần nhân đạo được thể hiện đầy đủ nhất. Truyện Kiều đưa Nguyễn Du trở thành đại thi hào dân tộc, nhưng chính thơ chữ Hán mới làm hiện rõ cõi sâu tinh thần, cho thấy tầm vóc tư tưởng của một nhân cách lớn.

Chủ đề KỶ NIỆM 260 NĂM NGÀY SINH ĐẠI THI HÀO NGUYỄN DU

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Báo nói