10 điều chưa từng biết về rối loạn lo âu

Theo một phân tích lớn chưa từng có trên toàn cầu, một số khu vực trên thế giới, bao gồm cả Mỹ và Tây Âu có tỷ lệ mắc các rối loạn lo âu cao hơn. Hơn nữa, một số nhóm dân cư ở Mỹ có nguy cơ bị chẩn đoán mắc rối loạn lo âu cao hơn so với nhóm khác.

Olivia Remes, tác giả chính của phân tích này và là nhà nghiên cứu về lo âu ở ĐH Cambridge đã xem xét 48 nghiên cứu tốt nhất hoặc toàn diện nhất về tỷ lệ mắc lo âu trên toàn thế giới và có thể xác định nên văn hóa, giới tính và nhóm tuổi dễ bị ảnh hưởng nhất. Kết quả cũng cho thấy có khoảng cách trong sự hiểu biết giữa các nhóm.

Remes cho biết: “Cần có thêm nhiều nghiên cứu hơn trên những người được xác định là đồng tính hoặc lưỡng tính và lo âu là vấn đề quan trọng ở nhóm người này.

Ngoài ra, những người thổ dân sinh sống ở Canada, Mỹ, New Zealand và những nơi khác trên thế giới có nguy cơ cao hơn có sức khỏe kém nhưng chúng ta biết rất ít về sức khỏe tâm thần của họ.

Tại sao rối loạn lo âu là vấn đề?

Mặc dù rất phổ biến, nhưng rối loạn lo âu thường bị coi là sự lo lắng đơn thuần thay vì là căn bệnh có thể gây suy nhược hay tàn phế cần điều trị.

Trong khi lo lắng một chút có thể có lợi vì giúp chúng ta giữ an toàn, những người bị các rối loạn lo âu không được điều trị phải trải qua cảm giác không kiểm soát được nỗi sợ hãi, có thể ảnh hưởng tới cuộc sống hàng ngày và ngăn họ làm những việc họ muốn làm. Hiểu biết hơn về những rối loạn lo âu là một cách giúp chống lại sự kỳ thị về bệnh tâm thần này và giúp cho những người cần nó.

Các rối loạn lo âu có thể làm tăng nguy cơ tự tử, tàn tật và chất lượng sống kém. Nếu chúng ta không biết những người dễ bị lo âu nhất, chúng ta không thể làm bất cứ điều gì để giảm gánh nặng nhân lực và kinh tế liên quan tới những rối loạn này.

Dưới đây là 10 điều có ý nghĩa bước ngoặt về lo âu được rút ra từ phân tích lớn nhất toàn cầu:

1. Phụ nữ có nguy cơ cao gấp hai lần bị mắc rối loạn lo âu so với nam giới

Phụ nữ dễ bị rối loạn lo âu hơn so với nam giới (tỷ lệ là 1,9 so với 1) và sự khác biệt tồn tại qua thời gian và ở cả nước đang phát triển và nước phát triển.

2. Những người trẻ dễ bị rối loạn lo âu hơn

Dù cho ở nền văn hóa nào, những người dưới 35 tuổi cũng dễ bị rối loạn lo âu so với người nhiều tuổi hơn. Điều này đúng với tất cả các nước được nghiên cứu, ngoại trừ Pakistan, nơi những người trung tuổi có tỷ lệ mắc rối loạn lo âu cao nhất.

3. Nghiện chất giảm đau có liên quan tăng nguy cơ lo âu

Trên toàn cầu, sự xuất hiện các triệu chứng lo âu ở những người lạm dụng chất giảm đau là từ 2% tới 67% trong khi được chẩn đoán lo âu thật sự là khoảng 29%. Ở những người Mỹ lạm dụng chất giảm đau, con số này là 16%.

4. Những người mê cờ bạc hoặc nghiện internet dễ bị rối loạn lo âu hơn

Ngoài lạm dụng chất giảm đau, say mê trò đỏ đen và nghiện internet là những hành vi nguy cơ khác có liên quan tới sự gia tăng chẩn đoán lo âu. Trên toàn thế giới, 37% con bạc bệnh lý báo cáo bị rối loạn lo âu, trong khi các nghiên cứu về nghiện internet (chủ yếu ở các nước châu Á) thấy rằng tỷ lệ mắc lo âu cao hơn gấp 2 lần ở những người nghiện internet so vo với nhóm không nghiện.

5. Lo âu thường xuất hiện với các bệnh tâm thần và thần kinh khác.

Những người bị rối loạn lưỡng cực, tâm thần phân liệt, xơ cứng rải rác có nguy cơ cao hơn bị rối loạn lo âu. Ở châu Âu, có khoảng 13% tới 28% số người bị rối loạn lưỡng cực cũng bị lo âu, trong khi trên toàn cầu, 12% số người bị tâm thần phân liệt được chẩn đoán bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Cuối cùng, khoảng 32% những người bị xơ cứng rải rác mắc rối loạn lo âu và khoảng hơn một nửa số họ có một số triệu chứng lo âu.

6. Các bệnh có vẻ không liên quan lại rất liên quan tới lo âu

Những người bị bệnh tim mạch, ung thư, bệnh hô hấp, tiểu đường và các bệnh mạn tính khác dễ bị rối loạn lo âu hơn. Ví dụ, khoảng 2% tới 49% những người bị suy tim sung huyết có các triệu chứng lo âu. Từ 10% tới 50% những người bị bệnh động mạch vành có rối loạn hoảng sợ.

Trong khi đó, tỷ lệ lo âu ở bệnh nhân ung thư từ 15% tới 23%. Sự gia tăng nguy cơ này thậm chí có thể lan ra những người sống sót sau ung thư và bạn đời của họ. Trên toàn cầu, những người được chẩn đoán bị ung thư 2 năm cách đây có tỷ lệ lo âu cao hơn so với nhóm chứng khỏe mạnh (18% so với 14%) và 40% bạn đời của những người sống sót sau ung thư bị lo âu.

7. Lo âu có thể xuất hiện ở những người bị bệnh mạn tính, không đe dọa sự sống

Những người bị tiểu đường dễ bị các rối loạn lo âu hoặc các triệu chứng lo âu so với nhóm chứng khỏe mạnh và ảnh hưởng này là mạnh hơn ở phụ nữ so với nam giới. Ví dụ, phụ nữ bị tiểu đường dễ mắc lo âu cao gần gấp 2 lần so với nam giới bị tiểu đường (55% so với 33%).

8. Chấn thương trong quá khứ có thể giải thích tỷ lệ cao lo âu

Tỷ lệ lo âu ở những người từng bị chấn thương có thể cũng cao. Các nghiên cứu về các cựu chiến binh của Anh và Mỹ bị mất chân tay cho thấy lo âu ảnh hưởng từ 1/4 tới trên 1/2 những người này. Trên toàn cầu, tỷ lệ những người có tiền sử bị lạm dụng tình dục báo cáo lo âu là từ 2% tới 82%.

9. Lo âu dễ xảy ra trong thời kỳ mang thai

Trên toàn cầu, phụ nữ mang thai và sau sinh có tỷ lệ cao hơn bị rối loạn ám ảnh cưỡng chế so với dân số chung (tỷ lệ lần lượt là 2% và 2,4% so với 1% dân số chung).

Các nghiên cứu Ethiopian và Nigerian chỉ ra rằng lo âu dễ xảy ra ở phụ nữ trong giai đoạn trước và sau sinh (lần lượt là 15% và 14%) và ảnh hưởng này đặc biệt rõ rệt ở phụ nữ trẻ hơn

10. Những nhóm người dễ bị tổn thương cũng dễ bị lo âu hơn

Những người đồng tính hoặc lưỡng tính sống ở các nước phương Tây có tỷ lệ mắc rối loạn lo âu cao hơn bình thường và ảnh hưởng này là mạnh nhất ở phụ nữ. Ước tính có 3% tới 20% nam giới phải đối mặt với lo âu trong khi tỷ lệ này ở phụ nữ là từ 3% tới 39%.

Các triệu chứng lo âu cũng phổ biến nhất ở người già, đặc biệt ở những người bị suy giảm chức năng nhận thức như các rối loạn trí nhớ. Ước tính có 11% tới 75% những người cao tuổi suy giảm nhận thức nhẹ bị rối loạn lo âu. Rối loạn lo âu thậm chí lan ra cả những người chăm sóc họ với tỷ lệ ảnh hưởng từ 4% tới 77%.

Remes hi vọng rằng nghiên cứu của bà chỉ rõ những nhóm người dễ bị ảnh hưởng bởi lo âu nhất để các chính phủ và hệ thống chăm sóc y tế có thể hướng các nguồn lực, nỗ lực can thiệp và sàng lọc sức khỏe tâm thần vào những nhóm người có nguy cơ cao này.

Hi vọng nghiên cứu này sẽ tăng cường nhận thức về lo âu như một vấn đề quan trọng để có thêm nhiều nghiên cứu về nó được thực hiện và những người bị bệnh có thể tìm kiếm sự giúp đỡ và được điều trị nếu cần. Sức khỏe tâm thần là quan trọng với tất cả mọi người và là quyền cơ bản của con người.

Theo Dân trí

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Báo nói