Bãi sông Giang Đình

(Baohatinh.vn) - Quê tôi có dòng sông Lam trong vắt, nước xanh biêng biếc, lững lờ xuôi về biển cả bao la. Nơi dòng sông gặp biển là cửa Hội Thống, một danh thắng nổi tiếng. Trèo lên cây cổ thụ đầu làng, nhìn về hướng Đông Bắc, thấy rõ đảo Song Ngư giữa biển trời mênh mông. Chiều chiều, thuyền ghe giương cao cánh buồm nâu tấp nập vào Cửa Hội...

Hướng tới kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du

Bãi sông Giang Đình ảnh 1
Thuyền cập bến Giang Đình.

Mỗi khi nghĩ đến quê hương, nguồn cội, người dân quê tôi thường nói về núi Hồng, sông Lam, về biểu tượng của dân “áo tơi”, “cá gỗ” với những phẩm chất tài giỏi, anh hùng, trung kiên, dũng cảm trước thiên tai, địch họa. Người dân quê tôi dạt dào tình cảm với quê hương, xứ sở của mình. Từ buổi sinh cơ, lập nghiệp đến bây giờ, không rõ bao nhiêu thế kỷ, chỉ nghe người già nói làng tôi đã có từ lâu lắm rồi. Quê tôi có đất thiêng gò nghiên, tháp bút, đã sinh ra nhiều danh nhân, khoa bảng nổi tiếng cả nước. Các nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ, họa sĩ đã tốn không biết bao nhiêu bút nghiên, giấy mực để viết, vẽ ca tụng đất này. Người dân quê tôi ai cũng thuộc lòng câu thơ của danh nhân Nguyễn Công Trứ:

Trước Lam thủy, sau Hồng sơn

Nhà nào đọc sách gảy đờn là anh.

và câu ví:

Mịt mù mây móc giăng đỉnh Hồng sơn

Lác đác mưa rơi trên dòng Lam thủy.

Câu thơ, điệu ví làm rung động lòng người, gợi nhớ những đêm trăng tỏ, những ngày chăn trâu, cắt cỏ đầy kỷ niệm bên dòng sông Lam hiền hòa, phẳng lặng.

Bến đò làng tôi gọi là bến Giang Đình, cũng là một danh thắng ở đất Nghi Xuân văn vật. Trên bến có chợ cũng tên gọi Giang Đình. Từ xa xưa, chợ Giang Đình trên bộ, dưới thuyền là chợ hàng huyện. Người già kể rằng, thương nhân ở mọi miền đất nước và người Trung Hoa, Nhật Bản, Ấn Độ đến đây lập phố phường, buôn bán gấm vóc, tơ lụa Hàng Châu, thuốc bắc, sành sứ, kim khí và các loại nông sản, thịt lợn, trâu bò... Ngoài ra, còn có cả gạc hươu và thịt thú rừng do phường săn Tiên Điền, Xuân Viên mang đến bán; có hiệu kim hoàn do người họ Phan làm chủ. Chợ ở phía Nam bãi bồi sông Lam, ngày nay, vẫn còn cây đa cổ thụ. Thời vua Cảnh Hưng, thân phụ Đại thi hào Nguyễn Du là Tể tướng Xuân quận công Nguyễn Nghiễm về hưu, dân làng đã dựng đình một mái trên bãi sông để đón rước. Sự kiện ấy đã in dấu trong câu ca dao của người làng tôi:

Quan về trí sĩ quê nhà

Truyền dân tám tổng phải ra dọn đường.

Bãi sông Giang Đình ảnh 2
Hát ví, giặm trên bến sông quê

Ngày ấy, thuyền quan quân cập bến Giang Đình, ngựa xe nhộn nhịp, cờ xí tung bay, tàn lọng “chen mây” rợp bóng một vùng sông nước. Bãi sông này đã đi vào thơ của Đại thi hào Nguyễn Du, một người con ưu tú của Hồng sơn, Lam thủy. Vào thời biến loạn, nhà Lê mạt vận, sau thời gian bôn ba nơi quê vợ ở Thái Bình, Nguyễn Du trở về quê nội Tiên Điền, đặt chân lên bến nước Giang Đình. Ngắm cảnh quê hương, nhớ đến người cha đã khuất, ông cảm tác xuất bút thành thơ:

Thuyền tiên lướt sóng in rồng dấu

Tàn quý chen mây tựa hạc bay.

Mười năm gió bụi sống ở quê hương, trong mái tranh nghèo bên dòng Lam thủy, chiều chiều, thi sĩ ra bờ sông ngắm cảnh hoàng hôn. Những con cò trắng mà Nguyễn Du gọi là chim âu từ biển đảo bay về, đậu trên bãi sông Giang Đình rất nhiều. Ngọn bút tài hoa của danh nhân họ Nguyễn đã tả cảnh bãi sông quê hương: Bên bãi sông Long Vĩ có nhiều chim âu trắng. “Long Vĩ” nghĩa là đuôi rồng, một tên gọi khác của sông Lam. Những ngày sống ở quê hương, Nguyễn Du sống chan hòa với người dân lao động một nắng, hai sương, cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ. Danh nhân cùng trai phường nón qua Ngàn Hống, sang Trường Lưu hát ví với gái phường vải:

Trăng tà chênh chếch bóng vàng

Dừng chân thoắt nhỡ đến đàng cửa truông.

Sống cùng người dân lao động, khi làm ngư phủ đánh cá biển Nam Hải, khi theo phường đi săn thú rừng núi Hồng Sơn, là con quan tể tướng nhưng ông sống độ lượng, bình dân, chân chất, mộc mạc, có tình, có nghĩa nên được người lao động yêu mến, quý trọng. Trong bài thơ Độ Long Vĩ giang, tình cảm đó được Nguyễn Du ghi nhận và mô tả qua cảnh người dân lưu luyến tiễn đưa ông trên bến đò qua sông Long Vĩ:

Trên bến người đưa tiễn

Vì ta lệ vấn vương.

Khúc sông Lam chảy qua làng tôi rộng khoảng 1,5 km. Phù sa từ thượng nguồn hàng năm bồi đắp thành một bãi đất bằng phẳng, rộng hơn 10 mẫu, cỏ lác mọc non xanh mơn mởn. Bãi bồi là một cánh đồng hoang mà thiên nhiên ban tặng làng tôi. Từ bao đời nay, nó được dùng làm bãi chăn trâu bò của dân làng. Buổi sáng, đàn bò ung dung gặm cỏ, những con cò trắng đậu bên cạnh thỉnh thoảng lại vỗ cánh bay lên không trung rồi đáp xuống chỗ khác, tạo nên quang cảnh một vùng sông nước thơ mộng trên bãi sông Giang Đình. Lũ trẻ chăn trâu chia làm 2 phe đá bóng. Đàn trâu khoan thai gặm cỏ non trên bãi phù sa. Chơi bóng đá chán chê, đám mục đồng hè nhau tắm sông.

Dòng sông phẳng lặng, trong suốt như một chiếc gương, bóng cây cừa cổ thụ, tán sum suê, nghiêng nghiêng soi bóng nước. Những đứa trẻ nghịch ngợm mình trần trùng trục, mặc quần đùi trèo lên cây cừa rồi đứng thẳng, lấy đà lao xuống sông bơi lặn, vùng vẫy trên mặt nước. Vẫy vùng mãi cũng chán, đám trẻ thi nhau bơi ngược dòng nước chảy. Nhờ những cuộc thi như thế, lũ trẻ mục đồng làng tôi bơi lặn rất giỏi, chúng nhanh nhẹn như những con rái cá. Nhiều đứa cậy tài, bơi ra tận cọc đáy mà bà con vạn chài đóng đăng bắt cá. Có đứa còn bơi qua bờ bên kia sông Lam.

Chiều tối, mặt trời ngả về Tây sau núi Dũng Quyết, hoàng hôn buông xuống cũng là lúc mục đồng xua trâu đủng đỉnh về chuồng. Trăng trung tuần nhô lên ngọn cây đa đầu làng, ban phát sắc vàng xuống nhân gian. Đêm trên bãi sông Giang Đình dạt dào sóng nước, văng vẳng một giọng hát ru tình tứ, xao xuyến lòng người:

Chiều chiều ra đứng bờ sông

Muốn về quê mẹ mà không có đò.

Tiếng mái chèo ngư phủ rẽ nước soàn soạt, tiếng gõ đuổi cá cành cạch, đều đều suốt đêm, tiếng máy tàu ra khơi bám biển đánh bắt xa bờ… đã làm tôi không thể nào quên. Bãi sông Giang Đình quê tôi đẹp lắm! Ngày nay, trên bộ, dưới thuyền tấp nập hơn xưa. Rừng bần và sú vẹt đã phủ kín mép nước ngoài bãi sông. Đàn cò đã trở về trú ngụ, làm tổ. Đê hữu sông Lam đoạn qua bến bãi Giang Đình đã thông. Quê hương đang khởi sắc từng ngày trong phong trào xây dựng nông thôn mới.

Tháng 5/2015

Đọc thêm

Ươm mầm dân ca ví, giặm

Ươm mầm dân ca ví, giặm

Phát huy vai trò là những hạt nhân trong bảo tồn, gìn giữ di sản, nhiều nghệ nhân trên địa bàn Hà Tĩnh đã tình nguyện tham gia, mở các lớp học miễn phí để truyền dạy dân ca cho các em học sinh.
Podcast bút ký: Làng thợ bạc Nam Trị

Podcast bút ký: Làng thợ bạc Nam Trị

Nâng chén trà miệng bít bạc của các nghệ nhân Nam Trị, tôi lâng lâng nghĩ về quá khứ, nghĩ đến tương lai của cái nghề vàng, nghề bạc. Cái nghề mà ông cha đã một thời đeo đuổi!
Podcast truyện ngắn: Chiếc xe đạp

Podcast truyện ngắn: Chiếc xe đạp

Mỗi người sinh ra đều có một hoàn cảnh riêng, không ai giống ai. Bởi vậy, hãy luôn cùng nhau cố gắng trong mọi hoàn cảnh, để mỗi ngày cảm nhận cuộc sống tươi đẹp hơn.
Podcast truyện ngắn: Lênh đênh đời thúng

Podcast truyện ngắn: Lênh đênh đời thúng

Một già, một trẻ, nương tựa vào nhau mà sống. Bên nhau qua từng mùa biển động. Ngoại không còn đủ sức để vươn ra xa bờ, chỉ còn trông cậy vào chiếc thúng chòng chành...
Podcast tản văn: Rộn ràng tiếng vỗ cánh chim non

Podcast tản văn: Rộn ràng tiếng vỗ cánh chim non

Mùa hè mang theo bao điều kỳ diệu trong khu vườn nhỏ của tuổi thơ. Nếu quan sát kỹ ta sẽ thấy sự biến chuyển của muôn loài, và sẽ thấy khu vườn tuổi thơ không chỉ có cây xanh và hoa trái, mà còn là nơi chắp cánh cho những ước mơ đầu đời được bay xa.
Đưa dân ca ví, giặm “chạm” đến thế hệ Alpha

Đưa dân ca ví, giặm “chạm” đến thế hệ Alpha

Không còn là những lời ru xưa vang vọng trong ký ức, những lớp học dân ca của CLB Dân ca ví, giặm trẻ Hà Tĩnh đã được “làm mới” và trở thành sân chơi sáng tạo, giúp các em nhỏ thêm tự tin, gắn kết và yêu văn hóa truyền thống.
Podcast truyện ngắn: Ngày em đẹp nhất

Podcast truyện ngắn: Ngày em đẹp nhất

Từ mái ấm cô nhi viện đến lễ đường nơi Xóm Cồn, hành trình của Tuấn và Duyên là minh chứng cho một tình yêu đủ sâu để vượt qua nghịch cảnh, dù chỉ trong khoảnh khắc cuối cùng...
Podcast: Nơi neo giữ mái ấm gia đình

Podcast: Nơi neo giữ mái ấm gia đình

Mỗi người đều có một nơi để trở về, một ký ức để gìn giữ. Và, với nhiều người, đó chính là hình ảnh ngôi nhà xưa với những yêu thương đong đầy trong từng khoảnh khắc đời thường.