Trong chuỗi ký ức tuổi thơ êm đềm vẫn hiện hữu trong tôi hình ảnh buổi sáng tháng mười màn sương còn giăng đầy, trắng đục cả làng quê, mọi người đã lục tục kéo nhau ra đồng để chặt mía đem về kho hợp tác xã.
Ảnh minh họa từ internet
Mùa thu hoạch mía, người lớn vui một nhưng lớp trẻ con bọn tôi vui mười, bởi nỗi khát khao được một khúc mía ngọt ấp ủ từ lâu. Dẫu biết mía là "sản phẩm chung của tập thể" nhưng vì lòng thương con trẻ nên các cô, các bác cũng xin phép bác bảo vệ đồng "dấm dúi" cho chúng tôi vài ba cây. Họ còn dùng dao sắc róc vỏ, "tiện" ra từng lóng và không quên dặn dò: "Nhớ dành vài lóng cho em nhỏ ở nhà".
Chúng tôi khoái quá, nhảy tung chân sáo vì được thưởng thức vị mía ngọt lừ lan ra từ đầu lưỡi. Mùa mía, một số gia đình cũng dắt trâu, dắt bò ra đứng đầu bờ để "thưởng công" cho chúng sau một năm cày bừa vất vả bằng những chiếc lá mía còn sót lại ở đỉnh ngọn.
Mía quê tôi hàng năm thường phải trải qua 2 trận lũ ngâm (trận lũ tiểu mãn tháng năm, trận lũ to tháng tám). Thế nhưng, cứ đến tháng mười, những cánh đồng mía vẫn thi nhau trổ cờ lau rất đúng dịp. Khi mía đã trổ cờ lau, nghĩa là trong thân cây, mật đã vượt rễ lên ngọn rồi. Tháng mười hanh heo mật trèo lên ngọn. Một điều kỳ lạ, mía quê tôi dầu ngâm lũ nhưng cây nào cây nấy thân vẫn cứ thẳng tắp. Những lá mía mới ngày nào sắc như gươm khua, bây giờ khô cong và rụng đầy dưới gốc. Tùy theo sự thích ứng của mía với đất, hợp tác xã tôi khoanh vùng thâm canh mía bằng hai thứ giống khác nhau. Giống mía thân cây màu đen sẫm, dân làng tôi quen gọi "mía Quảng", giống mía thân cây màu vàng nâu gọi là "mía da lươn".
Mỗi lần chặt mía xong, dân hối hả thu dọn mía trên đồng. Rồi người thì bỏ vào xe cải tiến đẩy, người lại vác mía lên vai đưa về nhà kho hợp tác xã. Tại đây, ban quản lý hợp tác xã đưa toàn bộ số mía thu hoạch mỗi ngày lên bàn cân, ghi chép cẩn thận để chuẩn bị kế hoạch "ép che".
Làng tôi lúc đó có hai con trâu béo, kéo cày khỏe của ông Lộc và ông Chiu được hợp tác xã "điều động" phục vụ cho công việc "kéo che". Công điểm dành cho những người chủ trâu này được tính gấp 3 lần so với công kéo cày tại ruộng. Mỗi ngày, mỗi con trâu chỉ "kéo che" đúng bốn tiếng đồng hồ, luân phiên nhau cả sáng và chiều. Tội nghiệp cho chúng, cứ sau mỗi tiếng đồng hồ được "chủ che" cho nghỉ giải lao mười phút, con nào con nấy miệng sùi bọt mép, uống cạn hơn hai chậu nước. Uống xong, chúng lại ngoan ngoãn gồng trên lưng mình chiếc đòn gỗ dài nặng nề, để vận hành hai khối gỗ lim hình trụ có nhiều cái tai vuông quay vòng tròn. Trâu chầm chậm đi từng bước một, đó cũng là lúc cả làng tôi nghe âm thanh kẽo kẹt… kẽo kẹt luân hồi từ sáng đến xẩm tối.
Một nhóm đàn ông gồm ba người phục vụ cho công việc "ép mía". Người đưa mía vào miệng che, người ôm bã mía ra sân phơi, người điều khiển trâu kéo và kiểm soát nước mía chảy theo lòng máng. Mỗi thân cây mía cho vào "miệng che" để "che ăn", đã được rửa nước suối sạch sẽ, rồi nghiền đi, nghiền lại 4-5 lượt. Khi cả kho mía trở thành núi bã mía khô không khốc, đó cũng là lúc trâu và người mới được nghỉ ngơi.
Tôi nhớ mãi những buổi chiều cùng thằng Danh, thằng Sơn, thằng Đỏn, thằng Bình xuống xem ông Nhuần, ông Nhung, ông Thế làm nhiệm vụ "chưng mật" mía. Chiếc lò miệng to như cái nong thóc, đủ đặt khít hai chiếc chảo gang khổng lồ. Lửa trong lò đỏ rừng rực, khiến nồi nước mía tươi mới đổ vào đầy ắp, chỉ mấy phút sau đã réo sôi sùng sục. Nước mía tươi dần dần ngả màu vàng cánh kiến. Lửa càng đỏ, chảo mật càng tạo "sóng đào" dập dờn cùng lửa. Mùi mật bay ra thơm lừng. Người nấu mật cầm trên tay một chiếc que, phía đầu que đính một chiếc bao to làm bằng vải màn. Đấy là công cụ vớt bọt đất của người "sắc mật" truyền thống… Để "sắc" được những giọt mật vàng tinh chất như thế, ông chủ nhiệm phải huy động các gia đình đóng góp hàng chục gánh củi.
Mùa mía ai cũng vui vì các gia đình trong làng đều được chia phần. Mật chưng cất xong, trống hợp tác xã hối hả, rộn ràng nổi lên. Người xách hũ sành, người xách chai lọ… đến tại sân kho để nhận phần. Có mật mía tháng mười, gia đình nào cũng nấu bánh sắn ngào, bánh khoai ngào, ăn thỏa sức... Sau đó, dành để nấu chè cúng ông bà, tổ tiên trong dịp tết.