Tôi đã trải qua thật nhiều mùa thu với những sắc thái khác nhau của đất trời. Có mùa thu với những cơn mưa dầm dề, những trận lũ lụt cuốn đi bao thứ, để lại những xác xơ cây cỏ. Có mùa thu với bầu trời cao rộng thẳm xanh, với dòng sông lững lờ trôi, dăm ba con thuyền lấp lánh buồm nâu dưới ánh nắng mật ong và ngọn gió heo may nương nhẹ. Nhưng, tất cả những mùa thu tôi đã từng đi qua ấy đều giống nhau ở chỗ đều ngân vang những tiếng reo vui của lòng người. Mùa thu tháng Chín bao giờ cũng thế. Mùa thu của cờ hoa, mùa thu của người Việt.
Trong tuổi thơ bình lặng nơi miền quê của tôi, cùng với Tết Nguyên đán, Tết Độc lập có lẽ là món quà mà Nhà nước ban tặng, để tôi thêm một lần chứng kiến sắc màu lễ hội, để được sống trong một không gian khác, để cảm thấy cuộc đời mình có một điều gì mới mẻ hơn. Cứ ngày ấy mỗi năm, tâm hồn lũ trẻ chúng tôi bừng sáng bởi màu cờ Tổ quốc phủ thắm không gian. Chừng đầu tháng Tám, tiếng trống bắt đầu vang vọng theo nhịp chân bước của thiếu niên trong kỳ tập luyện chuẩn bị cho ngày lễ chính thức. Những buổi sáng, khi những tia sáng non nớt đầu tiên từ phía chân trời chiếu xuống nhân gian, hoặc những buổi tối khi ánh trăng vàng lấp ló sau ngọn tre đầu làng, sân phơi của các đội sản xuất lúc nào cũng nhộn nhịp, tưng bừng.

Bắt đầu từ chiều mùng 1/9, trên khắp các đường thôn, từng đội thiếu niên xếp hàng diễu hành trong nhịp đi đều với đồng phục áo trắng quần xanh, những cây gậy, những chiếc vòng đủ màu sắc sặc sỡ. Ngày hôm nay như bắt đầu sớm hơn mọi ngày. Nhiều người dân đổ ra đường vẫy tay chào đón đoàn diễu hành. Những cái vẫy tay, những nụ cười nối dài. Vang lên từ loa phóng thanh của hợp tác xã là những bài hát quen thuộc mà vẫn say đắm lòng người: “Hành khúc đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh”, “Em là mầm non của Đảng”, “Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng”... Ngày mùng 2 là ngày rộn ràng nhất, khi ở sân vận động xã, các chi đội thiếu niên quần tụ về đây diễu hành, biểu diễn văn nghệ, cắm trại... Ở một phía khác, ngoài bãi soi và trên dòng Lam xanh thẳm, chỗ ngã ba sông, người ta tổ chức các trò chơi dân gian truyền thống: thi bơi thuyền, đánh cờ người, chơi đu quay...
Nhưng điều khiến tôi nhớ nhiều nhất vẫn là lễ cúng Tết Độc lập ở các gia đình. Quê tôi hồi đó, nhiều gia đình chuyển từ cúng rằm tháng Bảy sang cúng Tết Độc lập. Nguyên do trước hết hẳn nhiên là bởi lòng yêu Tổ quốc, tấm lòng hướng về Bác Hồ kính yêu. Nhưng còn một nguyên nhân khác, đôi khi nghĩ lại không khỏi có chút ngậm ngùi. Số là hồi ấy kinh tế còn khó khăn, giao thông bất tiện, việc mua bán trao đổi rất hạn chế (một phần còn do kinh tế quan liêu bao cấp, chống tư lợi tư thương), nên thực phẩm, lương thực là khá khan hiếm. Mấy anh em tôi, muốn có được bữa cơm có thịt thường phải chờ đợi đằng đẵng rất lâu đến các kỳ lễ, tết. Và, ngày mùng 2/9 là ngày lễ trọng của cả nước, hợp tác xã mới cho phép mổ lợn bán phân phối cho đồng bào. Vậy là, cúng Tết Độc lập tiện hơn cúng rằm tháng Bảy, khi 2 ngày đó thường gần nhau.
Tầm 4h sáng thì hợp tác xã bắt đầu mổ lợn. Trên mặt một sân kho của đội sản xuất nào đó, mấy con lợn được ngả ra, người chen trong ngoài để đợi lấy vài ba lạng thịt. Những con lợn bị cắt tiết, lông cạo sạch sẽ phơi màu da trắng hồng, mổ banh và đặt ngay ngắn trên những tấm lá chuối trải liền nhau. Lợn hồi ấy nhỏ, tầm 30-40 kg, không lớn nặng như lợn giống mới ngày nay. Thịt những con lợn xấu số được xẻ nhỏ. Mỗi gia đình chỉ được mua vài lạng. Không tiền đã đành, có tiền, muốn mua thêm cũng chịu, dù hồi ấy nhà nào cũng đông con. Những đứa bé lớn lên sau chuỗi ngày đói khát, tiện đâu ngủ đấy, có khi là chân đụn rơm, có khi là mép bờ ruộng, đen đủi, gầy tong teo... Vài lạng thịt cho mỗi gia đình, từ con lợn ấy, sẽ là món chính trên bàn thờ Tết Độc lập.
Các gia đình cúng Tết Độc lập trang hoàng lộng lẫy. Nhà tôi cũng thế. Tôi còn nhớ hình ảnh những lá cờ đỏ sao vàng được gió, bay phấp phới bên cạnh lá cờ búa liềm. Cột cờ được làm bằng thân cây tre mà thuở ấy hầu như bất cứ vườn nhà ai cũng có. Ngay dưới lá cờ là một chiếc mẹt cũ xỉn màu nổi bật những dòng chữ bằng thứ vôi vừa tôi xong: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”. Nhìn hình ảnh ấy, lòng tôi bỗng rưng rưng.

Gia đình thương binh Nguyễn Xuân Toàn (thôn Vĩnh Phú, xã Cẩm Xuyên) tự hào khi xem từng khối diễu binh, diễu hành.
Hồi ấy còn nhỏ dại, sách vở lại khan hiếm, chưa đọc được nhiều, nhưng tôi vẫn thường được nghe cô giáo kể những câu chuyện về Bác Hồ bằng giọng tôn kính, nghiêm trang, với đôi mắt ngân ngấn nước mà giá có máy quay thì người ta có thể ghi lại vô vàn thước phim tư liệu về tình cảm của người Việt Nam dành tặng Bác. Trong nhà trầm mặc khói hương. Trên bàn thờ vốn là chiếc sập đựng lúa, mẹ đã chuẩn bị 2 mâm cơm cúng, một cỗ bánh chưng cùng với rượu, cau trầu, đèn nến... Phía trên, bên trong là ảnh Bác Hồ được treo trang trọng trên nền cờ Tổ quốc. Có gì như vị Tết Nguyên đán. Khói hương thẻ, hương trầm quyện nhau trong gian nhà nhỏ bé mà ấm áp, ngào ngạt cố thơm hết mình để tận hiến cho ngày Độc lập.
Tôi không nghĩ, ngoài bộ từ điển tiếng Việt lại còn bộ từ điển ngôn ngữ nước nào có mục từ “Tết Độc lập”. Đó là cái tết chỉ của riêng người Việt Nam. 2 chữ “độc lập” bao giờ cũng ngân vang niềm kiêu hãnh về chủ quyền quốc gia, dân tộc. Những âm vang sử thi ấy được trao truyền từ Nam quốc sơn hà, Dụ chư tì tướng hịch văn, Tụng giá hoàn kinh sư, Bình Ngô đại cáo, Hịch diệt Thanh, Tuyên ngôn Độc lập, có lẽ không chỉ trên trang sách, trong lòng người, mà còn cả trong đất trời, cây cỏ, suối khe...

Với tinh thần ấy, đời nối đời, người Việt Nam đã không tiếc máu xương để bảo vệ từng ngọn rau tấc đất, để viết nên những trang sử với màu hồng của máu, với long lanh nước mắt, với rạng rỡ nụ cười, rạng rỡ cờ hoa. Và chữ “tết” neo tâm hồn người Việt lại bên bờ lịch sử, gợi một không gian lễ hội yên bình. Nó khéo léo gắn kết ý nghĩa chính trị - lịch sử của ngày lập nước với ký ức xa xăm về nền văn minh, văn hóa lúa nước tại thời điểm trời đất giao hòa, lòng người rộng mở và đợi chờ một cuộc sinh sôi.
“Tết Độc lập” là chữ dùng gợi khao khát về một cuộc trường sinh, gắn ý nghĩa tâm linh nguồn cội với tinh thần cách mạng của thời đại. Sự xuất hiện của bánh chưng, bánh dày trên mâm cỗ nhắc nhớ rằng, ngày hội mừng độc lập là sự tiếp nối của một hành trình từ Lạc Long quân dạy dân trồng lúa, Lang Liêu làm bánh dâng vua cha...
Tôi ngồi viết những dòng này trong một sáng mùa thu có ánh nắng chảy tan qua kẽ lá ngoài vườn. Tiếng trống thiếu nhi từ phía xa vọng lại, da diết, bồi hồi. Có lẽ, bà con rồi sẽ gói bánh chưng, các trò chơi dân gian lại được tổ chức và hội trại lại tưng bừng khai mạc. Tất cả gọi tôi về một tuổi thơ không thể nào phai nhạt trong hạnh phúc của một người dân được hít thở bầu không khí hòa bình, tự do.