Nguyễn Du hiện đại hơn các nhà văn hiện đại

Truyện Kiều của Nguyễn Du thấm đẫm văn hoá Nho Giáo nhưng văn hoá Nho Giáo có một điều rất thú vị là không biết từ bao giờ cái sự nói dối về quan hệ giới tính được nghiễm nhiên thừa nhận và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong suốt hàng nghìn năm nay. Ai cũng biết nhưng dư luận xã hội và ai cũng chấp nhận một cách tự nguyện.

Hướng tới Kỷ niệm 245 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn Du

PGS. TS Lê Đình Cúc - Viết riêng cho Hà Tĩnh Online

Bài 1: Tình yêu hiện đại của Kim Trọng - Thúy Kiều

Từ xã hội đến gia đình, dòng họ, dòng tộc đều bị những giáo lý của Nho Giáo chi phối. Quan hệ cha con, vợ chồng, nam nữ được quy định rất rạch ròi, mỗi thành viên phải nghiêm cẩn chấp hành, thực hiện không bàn cãi, suy xét. Nhiều quy tắc của xã hội là bất biến. Chỉ xét trong quan hệ nam – nữ, tức là quan hệ giới tính đã thấy nhiều điều trái xoáy. Nho Giáo quy định “ Nam nữ thụ thụ bất thân” - Đàn ông và đàn bà không được gần (chung đụng) với nhau. Ơ hay, quả thật có điều này thì làm sao có con. Giáo lý này ngấm sâu vào tiềm thức mỗi người, mỗi cá nhân trong gia đình. Khách đến thăm nhà, hỏi chủ nhà được mấy con (người Việt từ xưa đã quan niệm con và của là biểu hiện hạnh phúc, sự thịnh vượng của mỗi gia đình). Câu trả lời cửa miệng là “ Cảm ơn ( bác, cô, chú…) nhà em nhờ trời được 2, 3 (5, 7) cháu ạ”. Cứ làm như có con cái là do trời cho chứ không phải là do vợ ( hoặc chồng) mình đẻ ra. Nghĩa là cái việc thiết thực, đương nhiên, tất yếu là hạnh phúc giới tính bị dấu giếm. Ai nhắc đến lạc thú, niềm vui giới tính bị coi như suồng sã, hạ tiện trước dư luận xã hội, mặc dù ai cũng cần, cũng có, cũng làm, cũng tận hưởng nó. Đến những sự thật lịch sử cũng che giấu, cũng lẩn tránh dưới mọi hình thức tôn giáo và lực lượng siêu nhiên là thần thánh. Một Phù Đổng Thiên Vương ra đời là do mẹ dẫm phải lốt chân lạ trong vườn cà mà có thai. Một Lý Thái Tổ – Vị vua lỗi lạc bậc nhất trong lịch sử Việt Nam cũng ra đời do mẹ dẫm phải vết chân rái cá. Nghĩa là dân gian nghĩ rằng những bậc thánh nhân này phải là do trời đất sinh ra chứ không phải là do đàn ông và đàn bà tạo ra.

Cái lễ giáo phong kiến ngặt nghèo ấy được thể hiện suốt dòng chảy văn hoá Nho Giáo. Đến tận thế kỷ XVIII với bước nhảy vọt xuất thần của văn học Việt Nam với những Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Phạm Thái, Nguyễn Huy Lượng, Nguyễn Công Trứ ta mới thấy xuất hiện tư tưởng chống đối lại.

Xét tất cả những tác giả làm nên nền văn học Việt Nam rực rỡ thế kỷ XVIII, đến Nguyễn Du thì mới xuất hiện sự chống đối quyết liệt và hiệu quả nhất. Sự chống đối của Nguyễn Du không phải là sự phá phách vô lối, mà là sự giải phóng sự ức chế, cưỡng bức của libido mà xuất phát từ chủ nghĩa nhân văn cao cả, xuất phát sự thật (tiêu chí lớn nhất, bao trùm nhất của nghệ thuật), từ đòi hỏi tất nhiên, vốn có của con người. Coi sự chống đối, đập phá cái xiềng xích tàn bạo của lễ giáo phong kiến qua việc ông để cho Thuý Kiều “xăm xăm băng lối vườn khuya một mình” hoặc Kim Trọng “xăm xăm đè nẻo Lam Kiều tìm sang” là chỉ mới xem xét về hình thức. Hoặc ông là nhà văn trung đại đầu tiên tả phụ nữ tắm nude. Nàng Kiều tắm hai lần, trong đó có cảnh “Dày dày sẵn đúc một toà thiên nhiên” là tỏ thái độ chống đối là mới chỉ là hình thức. Nguyễn Du còn táo bạo hơn, tinh vi và quyết liệt hơn nhiều, ông nắm bắt được tâm lý con người, thấu hiểu khát vọng con người nên ông đã vượt tất cả những nhà thơ tài ba cùng thời.

"Dưới cầu nước chảy trong veo. Trên cầu tơ liễu bóng chiều thướt tha"

Lần gặp ngẫu nhiên nhưng không tình cờ chút nào giữa Kim Trọng và Thuý Kiều ở bờ rào nhà Vương ông và nhà trọ Kim Trọng thuê (với mục đích gặp lại Hai Kiều): “Tan sương đã thấy bóng người. Quanh tường ra ý tìm tòi ngẩn ngơ” nghĩa là cuối buổi sáng (tan sương) Kim Trọng mới gặp Thuý Kiều. Gặp lại người cũ và đó là một trong Hai Kiều mà chàng hơn hai tháng nay “Mặt tơ tưởng mặt lòng khao khát lòng” kể từ buổi gặp nhau ở bữa đi chơi Thanh minh. Gặp nhau Kiều và Kim Trọng có dịp, có cơ hội trao đổi với nhau kỷ vật để rồi trong buổi sáng ấy lúc gần trưa Kim Trọng đặt vấn đề:

“Tiện đây xin một hai điều

Đài gương soi đến dấu bèo cho chăng?”

Tất nhiên, người đọc đoán được rằng, Thuý Kiều, con nhà gia giáo ấy chẳng dễ dàng nhận lời, dù nàng đã rất yêu Kim Trọng, bởi cả Thuý Kiều, Kim Trọng và chúng ta (những người đọc) đều ra đời và sống trong những quy ước của Nho Giáo. Rằng có gia phong, gia huấn, gia lễ, gia đạo, có cha mẹ :

“Ngần ngừ nàng mới thưa rằng

Thói nhà băng tuyết chất bằng phỉ phong

Dù khi lá thắm chỉ hồng

Nên chăng thì cũng tại lòng mẹ cha”

Rồi thì “Trẻ thơ đã biết đâu mà dám thưa”

Ơ hay, nàng đã gặp Kim Trọng rồi, đã phạm tội lén lút gặp trai rồi đấy. “Thói nhà băng tuyết chất bằng phỉ phong” của nhà mình đâu rồi !

Thuý Kiều không trả lời đồng ý vì nhưng giáo lý ràng buộc chứ đâu có phải nàng không đồng ý. Với Kim Trọng cũng vậy “Đến đây mận mới hỏi đào. Vườn hồng đã có ai vào hay chưa” đó là văn hoá người Việt ta, tế nhị, kín đáo nói vòng vo, ám chỉ. Lần gặp gỡ này kéo dài không lâu nhưng cũng đủ cho hai người trao đổi tình cảm với nhau, rồi phải chấm dứt vì “mé sau dường có xôn xao tiếng người”.

Lần gặp thứ hai này giữa Thuý Kiều và kim Trọng làm thay đổi về chất quan hệ tình cảm của hai người, lần gặp gỡ thứ nhất (ở Hội Đạp Thanh - đi tảo mộ (mùng 3- 3)) chỉ mới là gặp để có gặp, để có lý do cho những lần gặp sau.

Nhẫn từ quán khách lân la

Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai

Như vậy lần này Thuý Kiều gặp Kim Trọng là đầu tháng 5 (“Thanh Minh trong tiết tháng ba” + 2 tháng). Sau lần gặp thứ hai, Thuý Kiều và Kim Trọng đã thề ước với nhau đã “Từ phen đá biết tuổi vàng. Tình càng thấm thía dạ càng ngẩn ngơ” để “Bên trông đầu nọ bên chờ cuối kia”. Rồi ở câu thơ 369 cho biết:

“Lần lần ngày gió đêm trăng

Thưa hồng rậm lục thấy chừng xuân qua”

(Hoa ít đi, rụng đi (thưa hồng) lá xanh dần rậm lên ( rậm lục)) nghĩa là thời gian giữa hai lần gặp nhau là rất gần. Lần gặp thứ ba (nhưng là lần gặp riêng thứ hai giữa hai người) là dịp cả nhà Vương Ông về quê ngoại dự sinh nhật, nhà thơ tìm lý do cho Kim Trọng và Thuý Kiều gặp nhau. Nhưng nhà thơ đa tình của chúng ta đã cố tình vi phạm lễ giáo phong kiến.

Ai cũng biết Thuý Vân là con gái, lại là con gái thứ chứ không phải là chị cả. Con trai nhà Vương Ông là Vương Quan. Về nhà ngoại, tất nhiên là Vương Quan phải đi cùng bố mẹ. Sau Vương Quan là chị cả Thuý Kiều phải đi chứ sao lại để Thuý Vân, là em đi. Thế là không phải đạo, không phải lẽ. Người ở nhà, trông nhà phải là Thuý Vân. Hoặc nếu là cần người ở nhà tiếp khách hoặc giải quyết việc gì đó thì phải con trai – Vương Quan chứ (thì cứ cho là ngày ấy con trai là quan trọng như quan niệm Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô).

Nhẫn từ quán khách lân la.

Tuần trăng thấm thoắt nay đà thêm hai

Nhưng với Nguyễn Du, cần một lý do cho Thuý Kiều và Kim Trọng gặp nhau và gặp nhau nhiều lần dịp đó nên ông để cho Thuý Kiều ở nhà, và rồi mọi sự đã xảy ra. Thuý Kiều đã có ý định sẵn rồi chỉ còn chờ cơ hội “Nhà lan thanh vắng một mình – Ngẫm cơ hội đã giành hôm nay” và nàng chuẩn bị cỗ bàn một cách chủ động để đi mời Kim Trọng đến nhà - Khi chỉ có một mình nàng ở nhà – “Thì trân thức thức sẵn bày” Của ngon vật lạ rất nhiều thứ bày ra, rồi nàng đi sang vườn hàng xóm: “Gót sen thoăn thoắt dạo ngay mé tường”, thì đã thấy Kim Trọng cũng đã chờ sẵn bên đó: “Dưới hoa đã thấy có chàng đứng trông” và nàng nói với người yêu, chủ động khi ra đây gặp chàng, nói cho chàng biết “Vắng nhà được buổi hôm nay” - Điều này để cho Kim Trọng biết điều kiện, hoàn cảnh của họ ngày hôm nay là hoàn toàn tự do, để rồi hai người có thể làm được những việc khác. Rồi nàng “lần theo núi giả đi vòng”, dám “Xắn tay mở khoá động đào – Rẽ mây trông tỏ lối vào thiên thai”. Nghĩa là Thuý Kiều chủ động, bạo dạn, gấp gáp “xông” sang nhà Kim Trọng chứ không để mời chào, không còn giữ ý tứ rụt rè, không “ngần ngừ nàng mới thưa rằng” như Kim Trọng ngỏ lời ở lần gặp riêng nhau vừa mới tuần trước.

Đây là cuộc gặp riêng lần thứ nhất. Lần này là ban ngày, suốt một ngày hai người tỏ tình, chuyện trò, xem và đề tựa tranh, Thuý Kiều gẩy đàn, nói chuyện về số phận của mình qua lời người tướng sĩ đã đoán hồi nàng còn nhỏ… Rồi hai người tâm sự, tự tình, thề với nhau.

Cả ngày hôm đó, Kiều đã ở nhà Kim Trọng đến chiều tối “Trông ra ác đã ngậm gương non đoài”. Mặt trời sắp lặn xuống núi, nàng mới ra về.

Về đến nhà Thuý Kiều biết bố mẹ đi dự sinh nhật chưa về, nàng đóng cửa và trở lại nhà Kim Trọng. Nguyễn Du để cho nàng đi trong bóng trăng đêm, vườn cây nhà nàng rực rỡ dưới ánh trăng nhưng nhà thơ đã mượn những cành cây che bớt ánh sáng trăng để nàng đi gặp người yêu “Nhặt thưa gương dọi đầu cành”. Kim Trọng vừa mơ màng ( chắc là cái dịu ngọt êm đềm chiều nay vừa ngấm) thì Kiều đã vào nhà. Lần này nữa, lần gặp riêng thứ hai này vẫn là nàng (con gái) chủ động đến.

“Nàng rằng: Khoảng vắng đêm trường

Vì hoa nên phải đánh đường tìm hoa”

Và nàng vào phòng Kim Trọng, hai người vừa viết lời thề (tiên thề cùng thảo một chương) cắt tóc thề với nhau có ánh trăng: “vằng vặc giữa trời” làm chứng cho lời thề của hai người. Và điều kỳ lạ nhất của đôi lứa trai gái sống và thấm nhuần lễ giáo của Nho Giáo đã lần đầu tiên xảy ra trong văn học Trung đại Việt Nam:

Chén hà sánh giọng quỳnh tương

Dải là hương lộn bình gương bóng lồng

Hai người cùng uống rượu. Bình thường thôi, chẳng có gì ghê gớm. Rồi đến giải là = dải áo bằng là (lụa, là, the, đũi… chất liệu vải) hương (mùi hương của những dải áo bằng là và hương cơ thể hai người), lộn = lẫn nhau, trộn vào nhau. Giải áo (bằng là) của hai người đã được mùi hương của nhau trộn lẫn. Như vậy là áo của hai người đã lẫn vào nhau chứ không phải gần nhau nữa. Và trang phục ngày xưa (cứ cho là năm Gia Tĩnh triều Minh) như ta vẫn thấy là nam nữ mặc áo dài, có dải, thường là ngang hông hoặc ở cổ áo để buộc, thắt lại khi mặc. Bây giờ dải áo hai người đã không còn thắt, buộc nữa mà đã quấn vào nhau hương mới (lẫn) lộn vào nhau được. Điều đó được khẳng định ở: “Bình gương bóng lồng”, tức là hai người phải ở tư thế nhập làm một nên trong gương bóng hai người mới lồng vào nhau. Trong phòng lúc đó chỉ có ánh sáng mờ ảo (ánh sáng của sáp “Đài sen nối sáp lò đào thêm hương) và bóng hai người lồng vào nhau trong gương thì phải là người đang ôm nhau. Nguyễn Du ghê gớm nhưng chỉ vì ông nêu lên một sự thật của những đôi trai gái yêu nhau mà các nhà nho khác không giám nói, vờ như không biết có đến hàng nghìn năm nay.

Rồi thì Kim Trọng, như lẽ thường tình tất nhiên của con trai khi ngồi với người yêu, chàng thăm dò

Chày sương chưa nên cầu Lam

Sợ lần khân quá ra sàm sỡ chăng

Thuý Kiều đang yêu, nàng thừa hiểu “Lòng vả cũng giống lòng sung” thôi mà. nàng không ngăn cấm mà lại khéo léo khuyến khích

“Đừng điều nguyệt nọ hoa kia

Ngoài ra ai lại tiếc gì với ai”

Cái giới hạn “ nguyệt nọ hoa kia” là ở đâu, cũng rất mong manh và mơ hồ. Thuý Kiều nhận biết hai người đã “đầu mày cuối mặt càng nồng tấm yêu” khi mà “Sóng tình dường đã xiêu xiêu – xem trong âu yếm có chiều lả lơi” cũng như mọi cô gái con nhà gia giáo. Nàng lấy ví dụ đôi lứa Thôi Oanh Oanh và Trương Quân Thuỵ để nhẹ nhàng, tế nhị ngăn Kim Trọng chớ quá đà. Nàng lấy trách nhiệm và đạo đức của người vợ “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu” để thuyết phục người tình. Rất hợp lý và khéo léo và cùng với lời hứa “Vườn hồng chi giám ngăn rào chim xanh” làm cho Kim Trọng vừa nể vừa biết kìm nén tình cảm của mình. Và ngay ở lần gặp riêng thứ 2 này, trừ cái việc cuối cùng là Thuý Kiều từ một trinh nữ chưa thành phụ nữ còn thì hai người đã làm tất cả. Thế thì còn “thụ thụ bất thân” cái nỗi gì. Và cái việc chưa làm đó, sau này (dù có lý do là “Biết thân đến bước lạc loài”) chính Thuý Kiều đã ân hận “Nhị đào thà bẻ cho người tình chung”.

Lần gặp gỡ này của Thuý Kiều và Kim Trọng đã xảy ra suốt cả đêm. Đến rạng sáng “Bóng tàn vừa lạt rẻ ngân” mới dừng và cũng chỉ dừng vì có người nhắn gọi từ phía “cửa ngăn”. Nếu không, cuộc gặp gỡ ấy còn chưa biết kéo dài đến bao giờ.

Như vậy, mới chỉ hai lần gặp riêng giữa Thuý Kiều và Kim Trọng, trong đó lần thứ hai kéo hết đêm cũng là do Thuý Kiều chủ động. Hai lần gặp này Thuý kiều đã xé bỏ và dập tan cái giáo lý “Nam nữ thụ thụ bất thân” của Nho Giáo kéo dài, áp đặt suốt cả nghìn năm lên đời sống và văn hoá Việt Nam.

Sự chống đối lễ giáo phong kiến của Nguyễn Du mới quyết liệt và ghê gớm làm sao và Nguyễn Du cũng là nhà văn hiện đại hơn mọi nhà văn hiện đại kể cả ở thế kỷ XXI này.

(Xem tiếp Bài 2: Với Truyện Kiều, Nguyễn Du hiện đại hơn các nhà văn hiện đại)

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Báo nói