Xung đột Nga - Ukraine sau 3 năm: Tổn thất nặng nề và triển vọng hòa bình

Ba năm sau khi Nga phát động chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, cuộc chiến vẫn chưa có hồi kết. Từ những trận đánh khốc liệt đến những nỗ lực hòa giải chưa mang lại kết quả, cả hai bên đều chịu tổn thất nặng nề. 

Binh sĩ Ukraine bắn hỏa lực trong cuộc xung đột với Nga gần Bahmut, vùng Donetsk. Ảnh: REUTERS/TTXVN
Binh sĩ Ukraine bắn hỏa lực trong cuộc xung đột với Nga gần Bahmut, vùng Donetsk. Ảnh: REUTERS/TTXVN

Ngày 24/2/2025 đánh dấu tròn ba năm kể từ khi Nga phát động chiến dịch quân sự đặc biệt ở Ukraine, mở rộng cuộc xung đột đã bắt đầu từ năm 2014. Cuộc chiến đẫm máu nhất tại châu Âu kể từ Thế chiến II này đã biến thành cuộc chiến tiêu hao kéo dài với tổn thất nặng nề cho cả hai bên.

Nhìn lại 3 năm chiến sự

Cuộc tấn công đa hướng của Nga vào tháng 2/2022 nhằm hai mục tiêu chính: nhanh chóng kiểm soát Kiev và chiếm đóng khoảng một nửa đến hai phần ba miền Đông Ukraine. Tuy nhiên, quân đội Ukraine đã chặn được cuộc tấn công vào thủ đô nước này, đẩy lùi quân Nga khỏi miền Bắc, và sau đó phát động các cuộc phản công ở phía Đông và phía Nam.

Từ đầu năm 2023, Nga đã tăng cường lực lượng tại Ukraine một cách đáng kể. Vào tháng 1/2023, quân số Nga tại chiến trường là khoảng 360.000, đến tháng 6/2023 tăng lên 410.000. Đến tháng 1/2024, con số này tiếp tục tăng lên 470.000 và chạm mốc 560.000 vào tháng 10/2024. Trung bình, cứ mỗi 6 tháng, Nga bổ sung khoảng 50.000 quân vào cuộc chiến.

Kể từ đầu năm 2024, cuộc chiến đã chuyển sang thế giằng co. Mặc dù Nga có dấu hiệu chiếm ưu thế, họ chỉ kiểm soát được diện tích lãnh thổ khiêm tốn. Theo số liệu, quân đội Nga hiện kiểm soát khoảng 18% lãnh thổ Ukraine. Trong năm 2024, Nga chỉ mở rộng thêm được hơn 2000 km2, chiếm chưa đến 1% diện tích Ukraine. Đáng chú ý, quân đội Nga vẫn chưa giành lại được phần lãnh thổ tại Kursk mà Ukraine kiểm soát từ tháng 8 năm ngoái.

Tổn thất nặng nề cho cả hai bên

Cả Nga và Ukraine để phải trả giá đắt cho cuộc xung đột. Liên hợp quốc ước tính, hơn 11.700 người tử vong và hơn 24.600 người khác bị thương, cùng hàng trăm nghìn binh sĩ Nga, Ukraine tử trận hoặc bị thương trong xung đột. Bộ Quốc phòng Nga công bố số liệu ghi nhận trong cả năm 2024, quân đội Ukraine đã mất 593.410 binh sỹ trong chiến đấu.

Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky thừa nhận con số thương vong của Ukraine trong cuộc chiến kéo dài gần 3 năm với Nga là hơn 45.000 người thiệt mạng và 390.000 người bị thương. Trong khi đó, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Ukraine ngày 29/1 thông báo trên Facebook rằng 834.670 quân nhân Nga đã bị thương vong ở Ukraine trong khoảng thời gian từ ngày 24/2/2022 đến ngày 29/1/2025.

Quân đội Ukraine với khoảng 900.000 quân so với 1,3 triệu quân của Nga, đang phải đối mặt với vấn đề nhân lực nghiêm trọng. Kiev vẫn phụ thuộc lớn vào vũ khí và đạn dược từ phương Tây, trong khi nguồn cung này có nguy cơ bị gián đoạn khi chính quyền Trump không tìm kiếm nguồn tài trợ mới từ Quốc hội Mỹ.

Khác biệt lớn về điều kiện hòa bình

Trong quá trình đàm phán giải quyết xung đột Nga - Ukraine, các bên liên quan phải đối mặt với nhiều thách thức phức tạp. Một trong những thách thức lớn nhất trong quá trình đàm phán là sự khác biệt về điều kiện tiên quyết giữa Nga và Ukraine. Ukraine yêu cầu Nga rút quân hoàn toàn khỏi lãnh thổ của mình, bao gồm cả Crimea, trong khi Nga lại yêu cầu Ukraine phải công nhận chủ quyền của họ đối với các vùng lãnh thổ đã sáp nhập và cam kết trung lập, không gia nhập NATO.

Sự khác biệt này tạo ra một bức tường khó khăn trong việc tìm kiếm một điểm chung để bắt đầu đàm phán. Nếu không có sự nhượng bộ từ cả hai phía, khả năng đạt được một thỏa thuận hòa bình sẽ rất thấp.

Sự thiếu niềm tin giữa hai bên cũng là một yếu tố cản trở đáng kể. Cả Nga và Ukraine đều có những trải nghiệm lịch sử đau thương và các vi phạm thỏa thuận trước đó đã làm tăng thêm sự nghi ngờ lẫn nhau. Điều này không chỉ làm cho quá trình đàm phán trở nên khó khăn hơn mà còn khiến cho việc thực hiện bất kỳ thỏa thuận nào đạt được sau này trở nên mong manh.

Các bên thứ ba, bao gồm các quốc gia phương Tây và các tổ chức quốc tế, cũng có thể tạo ra áp lực lên quá trình đàm phán. Mỹ và các đồng minh của mình thường xuyên công khai ủng hộ Ukraine trong khi áp đặt các lệnh trừng phạt lên Nga. Điều này có thể khiến Nga cảm thấy bị cô lập và không muốn nhượng bộ trong các cuộc đàm phán. Ngược lại, Ukraine cũng chịu áp lực từ phía các đồng minh để không nhượng bộ quá nhiều trước Nga.

Tuy nhiên, các cuộc thăm dò gần đây cho thấy đa số người dân Ukraine ủng hộ đàm phán, mặc dù một bộ phận đáng kể phản đối nhượng bộ lãnh thổ. Vào cuối năm 2024, Tổng thống Zelensky dường như đã thể hiện một số linh hoạt, gợi ý rằng cuộc chiến có thể kết thúc bằng việc trả lại lãnh thổ Ukraine thông qua các biện pháp ngoại giao, với điều kiện Ukraine được gia nhập NATO.

Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov (phải) và Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio (thứ 2, trái) tại cuộc đàm phán ở Riyadh, Saudi Arabia ngày 18/2/2025. Ảnh: REUTERS/TTXVN
Ngoại trưởng Nga Sergey Lavrov (phải) và Ngoại trưởng Mỹ Marco Rubio (thứ 2, trái) tại cuộc đàm phán ở Riyadh, Saudi Arabia ngày 18/2/2025. Ảnh: REUTERS/TTXVN

Nỗ lực hòa giải của chính quyền Trump

Tổng thống Mỹ Donald Trump từ lâu đã tuyên bố có thể nhanh chóng làm trung gian chấm dứt giao tranh. Gần đây, chính quyền Trump đã thể hiện một lập trường mới trong việc can thiệp vào cuộc xung đột Nga-Ukraine. Thông qua Phó Tổng thống JD Vance, Mỹ đưa ra thông điệp cứng rắn khi sẵn sàng áp dụng các biện pháp trừng phạt kinh tế và không loại trừ khả năng sử dụng hành động quân sự nếu Nga từ chối đàm phán hòa bình với Ukraine.

Tuy nhiên, chính quyền Trump cũng đồng thời đưa ra những động thái tích cực để khuyến khích đối thoại khi đề xuất cho phép Nga quay trở lại nhóm G7 và bác bỏ khả năng Ukraine gia nhập NATO - những điểm mà Moskva có thể xem như những nhượng bộ quan trọng.

Điều đáng chú ý là ông Trump đã khẳng định Ukraine sẽ là một bên tham gia đàm phán trực tiếp với Nga, đáp ứng yêu cầu then chốt từ Tổng thống Zelensky. Chiến lược này cho thấy Mỹ đang cố gắng tạo ra sự cân bằng giữa "cây gậy và củ cà rốt" để thúc đẩy tiến trình đàm phán.

Những bước đi cụ thể đã được thực hiện khi Tổng thống Trump có cuộc điện đàm kéo dài 90 phút với Tổng thống Putin, được mô tả là "hiệu quả cao". Tổng thống Trump cũng đã thành lập một đội ngũ đàm phán chuyên trách gồm những nhân vật cấp cao như Ngoại trưởng Marco Rubio, Giám đốc CIA John Ratcliffe, Cố vấn An ninh Quốc gia Michael Waltz và Đặc phái viên Steve Witkoff để thúc đẩy tiến trình hòa bình. Phái đoàn Mỹ và Nga cũng đã có cuộc gặp ở Saudi Arabia vào ngày 18/2 vừa qua để thảo luận về vấn đề Ukraine.

Một kế hoạch hòa bình cụ thể đang được xây dựng dưới tên gọi "chiến lược hòa bình thông qua sức mạnh". Các điểm chính của kế hoạch bao gồm: đóng băng xung đột, duy trì hiện trạng lãnh thổ hiện tại, và cung cấp các đảm bảo an ninh cho Ukraine để ngăn chặn khả năng Nga tấn công trong tương lai. Nhóm cố vấn cấp cao của Tổng thống Trump nhấn mạnh rằng để đạt được thỏa thuận hòa bình, cả Nga và Ukraine đều cần có những nhượng bộ nhất định.

Tóm lại, sau 3 năm giao tranh quy mô lớn, cuộc chiến Nga-Ukraine vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Nỗ lực hòa giải của Tổng thống Trump đã bắt đầu nhưng với những bước đi vẫn còn gây tranh cãi. Rõ ràng một giải pháp lâu dài đòi hỏi cả Ukraine và Nga phải từ bỏ hoặc điều chỉnh các lập trường cứng rắn của mình, đặc biệt là về vấn đề lãnh thổ và tư cách thành viên NATO. Nếu không có một chiến lược được chuẩn bị kỹ lưỡng, nỗ lực hòa giải có thể thất bại, và xung đột sẽ tiếp diễn - với hậu quả nghiêm trọng không chỉ cho Ukraine và Nga mà còn cho an ninh châu Âu. Điều quan trọng là bất kỳ giải pháp nào cũng phải công bằng và bền vững, không chỉ là một giải pháp tạm thời nhằm đạt được thắng lợi chính trị ngắn hạn.

baotintuc.vn

Đọc thêm

Bỉ ứng phó với 'đại dịch cúm tồi tệ nhất' kể từ thời kỳ COVID-19

Bỉ ứng phó với 'đại dịch cúm tồi tệ nhất' kể từ thời kỳ COVID-19

Số ca mắc bệnh cúm gia tăng đang khiến hệ thống y tế Bỉ rơi vào tình trạng báo động. Số lượt khám vì các triệu chứng giống cúm trong tuần này đã tăng gấp đôi so với đỉnh điểm của mùa cúm trước. Các chuyên gia y tế gọi đây là "đại dịch cúm tồi tệ nhất kể từ đại dịch COVID-19".