Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi...

(Baohatinh.vn) - “Tôi muốn đi ra ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta...”. Đây là lý do để người thanh niên Nguyễn Tất Thành xuống tàu xuất dương vào ngày 5/6/1911.

Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi...

Bến Nhà Rồng - nơi người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Ảnh Intenet

Tìm đường cứu nước

Ngày 5/6/1911, với tên mới là Văn Ba, Nguyễn Tất Thành đã lên tàu L"Admiral Latouche Trévill (một tàu lớn vừa chở hàng, vừa chở khách của hãng Năm Sao của Pháp) với vai trò phụ bếp, rời bến cảng Nhà Rồng ra nước ngoài tìm đường cứu nước. Một ngày lao động của Người từ 4 giờ sáng hằng ngày đến 9 giờ tối, suốt tháng không có ngày nghỉ. Ông chủ chỉ trả cho Người mỗi tháng không quá 50 phrăng, là thứ tiền công rẻ mạt nhất cho một lao động.

Một tháng sau đó, lần đầu tiên Người đặt chân lên đất Pháp. Người chứng kiến ở nước Pháp cũng có những người nghèo như ở xứ sở của mình. Người nói với người bạn điều mình nghĩ: “Tại sao người Pháp không “khai hóa” đồng bào của nước họ trước khi đi “khai hóa” chúng ta?”(1).

Năm 1912, Người làm thuê cho một chiếc tàu hãng Chargeurs Réunis của Pháp đi vòng quanh châu Phi. Năm 1913, Người đến nước Anh và kẹt lại nơi đây vì cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang nổ ra ở lục địa châu Âu từ năm 1914-1917. Người làm nghề quét tuyết cho một trường học. Sau đó, Người chuyển sang làm nghề đốt lò. Đây là một công việc rất nặng nhọc: trong hầm hết sức nóng, ra ngoài trời cực kỳ rét, không có đủ quần áo. Tiếp đó, Người đến làm thuê ở các khách sạn.

Cuối năm 1917, Người trở lại nước Pháp. Người vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật. Người dành nhiều thời gian đi sâu sát những khu vực có đông Việt kiều, vận động, cổ vũ tinh thần yêu nước, tố cáo tội ác của bọn thực dân đế quốc, dần dần trở thành linh hồn của Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp.

Đại diện Hội Những người Việt Nam yêu nước tại Pháp, Người gửi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam”, gồm 8 điểm và được viết bằng tiếng Pháp gửi tới Hội nghị Hòa bình Versailles vào ngày 18/6/1919, đòi chính phủ Pháp ân xá các tù chính trị, thực hiện các quyền tự do, dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi...

Tàu Đô đốc Latouche -Tréville, nơi người thanh niên Nguyễn Tất Thành làm phụ bếp khi rời bến cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) ra đi tìm đường cứu nước, ngày 5/6/1911. Ảnh Internet

Dù bản yêu sách phản ánh nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam không được Hội nghị Hòa bình Versailles xem xét nhưng nó lại tác động mạnh mẽ đến người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài. Bản yêu sách đã được đăng toàn văn trên báo Nhân đạo (L" Humanité) và trên báo Dân chúng (Le Populaire).

Ngoài bản tiếng Pháp, bản yêu sách còn có bản chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan đề “Việt Nam yêu cầu” và một bản chữ Hán nhan đề “An Nam nhân dân thỉnh nguyện thư” để gửi cho Việt kiều ở Pháp và bí mật gửi về nước. Tổng cộng, 6.000 bản yêu sách đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh tự bỏ tiền túi để in. Một tiếng vang nữa là ngày 18/9/1919, bản yêu sách được đăng trên báo Yiche Pao (Nghị xã báo) xuất bản ở Thiên Tân (Trung Quốc).

Ngày 2/8/1919, bài “Vấn đề bản xứ” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đăng trên báo Nhân đạo (L’Humanité) cũng nhắc lại những nội dung chính bản yêu sách và khẳng định nguyện vọng của Nhân dân Việt Nam là chính đáng.

Ngày 6/9/1919, Albert Sarrau - Bộ trưởng Bộ Thuộc địa (từng là Toàn quyền Đông Dương) đã đích thân gặp Chủ tịch Hồ Chí Minh tại trụ sở Bộ Thuộc địa. Ngay ngày hôm sau, Người viết thư đòi Albert Sarraut thực thi bản yêu sách.

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến các nước tư bản tiên tiến nhất lúc bấy giờ là Pháp, Mỹ, Anh… và các nước thuộc địa trên thế giới. Người nhận ra bản chất của chế độ tư bản chủ nghĩa và khẳng định: “Đấu tranh giành độc lập thì phải dựa vào sức mình để giải phóng mình, đừng bao giờ hy vọng, trông chờ vào sự “ban ơn” của chính quyền tư sản”(2).

Con đường cứu nước mới

Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lê-nin”, Người nhớ lại: “Điều mà tôi muốn biết hơn cả - và cũng chính là điều mà người ta không thảo luận trong cuộc họp là: Vậy thì cái quốc tế nào bênh vực nhân dân các nước thuộc địa? Trong một cuộc họp, tôi đã nêu câu hỏi ấy lên, câu hỏi quan trọng nhất đối với tôi... Và một đồng chí đã đưa cho tôi đọc Luận cương của Lê-nin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa đăng trên báo Nhân đạo”(3).

Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi...

Bác Hồ tại Đại hội Tours năm 1920. Ảnh Internet

Sau khi tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp (12/1920), tại Thủ đô Paris của nước Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số đồng chí là người của các thuộc địa Pháp đã tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa (1921) và đến năm 1922, Người trở thành chủ lực trong việc xuất bản tờ báo Người cùng khổ (Le Paria) làm cơ quan ngôn luận hội này.

Bắt đầu từ cuối năm 1923, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã theo học Trường đại học Cộng sản của những người lao động Phương Đông. Trường được thành lập tại Thủ đô Moscow của nước Nga Xô viết vào năm 1921. Sau Đại hội V Quốc tế III (tháng 6/1924), Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu làm Ủy viên thường trực Bộ Phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam của Quốc tế III.

Khi được Quốc tế III cử hoạt động tại Trung Quốc, Người cùng với các đồng chí của mình là người Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Inđônêsia, Miến Điện… tham gia sáng lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (1925). Lúc đó, Người mang tên Lý Thụy, là một trong những người lãnh đạo của hội đồng thời cũng là người trực tiếp phụ trách Chi bộ Việt Nam của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức.

“Bản án chế độ thực dân Pháp” (Le Procès de la Colonisation Fran-aise) là cuốn sách tập hợp các bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên các tờ báo ở Pháp và ở Liên Xô từ năm 1921-1924. Cuốn sách gồm 12 chương và phần phụ lục được một số đồng chí của Người xuất bản lần đầu tiên tại Thư quán lao động (Libraire du Travail) ở Paris vào năm 1925. Cuốn sách này của Người đã làm sáng tỏ thêm quan điểm của V.I. Lê-nin về chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm phong phú thêm chủ nghĩa Lê-nin về vấn đề dân tộc và thuộc địa.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã khẳng định con đường cứu nước, giải phóng dân tộc do Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm ra là đúng đắn. Trong Bản Tuyên ngôn Độc lập (2/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ “những lẽ phải không ai chối cãi được”. Đó là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.

-------------------

1, 2. Trần Dân Tiên: “Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch”, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr. 17-18; tr.33.

3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.127

Chủ đề Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh

Chủ đề KỶ NIỆM NGÀY SINH CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast