Anh hùng LLVTND Võ Hồng Tuyên |
“Từ thuở mang gươm đi mở cõi”, ông cha ta đã xác định chủ quyền an ninh quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. "Nam quốc Sơn Hà “ của Lý Thường Kiệt đã ngạo nghễ tuyên bố với giặc phương Bắc về "định phận tại sách trời "của sông núi nước Nam, rồi "Bình Ngô Đại cáo" của Nguyễn Trãi cũng được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai về chủ quyền dân tộc… Trải qua nhiều thế hệ, ngày nay, có một trong những lực lượng được giao nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia biên giới, bờ biển đó là bộ đội Biên phòng Việt Nam. Hơn 50 năm thành lập, chiến đấu, xây dựng và trưởng thành, có biết bao nhiêu anh hùng, chiến sỹ Bộ đội Biên phòng đã góp phần làm rạng danh truyền thống Bộ đội biên phòng Việt Nam… như Trần Văn Trí, người đã tuyên truyền vận động một Đại đội phỉ ra hàng ở Nghệ An, Mùa Vả Tùng (Kỳ Sơn- Nghệ An) chế ngự nổi phỉ, xưng vua, Phạm Bá Hạt, người anh hùng bắn máy bay Mỹ ở Quảng Bình, Trần Văn Thọ, người đã đem giống lúa mới về cho dân tộc Hà Nhì và được dân tộc Hà Nhì suy tôn là người con cả… Và người mà chúng tôi muốn nói đến trong bút ký này là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Võ Hồng Tuyên, lực lượng Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh
Huyền thoại những chiến công
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Hà Tĩnh vừa là hậu phương của tiến tuyến Miền Nam, là tiền tuyến của hậu phương Miền Bắc. Thời kỳ ác liệt nhất là cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bảo vệ biên giới và các mục tiêu nội địa, chi viện cho an ninh vũ trang Miền Nam và tăng cường giúp bạn Lào ( từ 1964-1975). Đây cũng là giai đoạn lực lượng công an nhân dân vũ trang Hà Tĩnh có nhiều chiến công xuất sắc. Năm 1970, có 3 người được Đảng và Nhà nước phong tặng anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân của Hà Tĩnh là La Thị Tám, người đếm bom ở ngã ba Đồng Lộc, Nguyễn Tiến Tuẩn, công an giao thông ngã ba Đồng Lộc và chuẩn úy Võ Hồng Tuyên, trinh sát lực lượng Công an nhân dân vũ trang Hà Tĩnh (tức Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh sau này).
Như là một sự gắn bó vô hình cuộc đời binh nghiệp của Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Võ Hồng Tuyên với lực lượng bộ đội biên phòng, ngôi nhà của ông nằm đối diện ngay trước trụ sở của Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh. Về hưu đã hơn chục năm, ông vẫn” không chịu ngồi yên” như những nhận xét của anh em,chiến sỹ đối với người chỉ huy trưởng năm nào.Khu vườn đầy ắp tiếng chim trên những cây si, có tiếng cá quẫy lao xao dưới đôi hồ nước… Khung cảnh dễ bắt gặp tại bất cứ đồn biên phòng nào ở Hà Tĩnh bấy giờ…
Mọi người kể rằng: Cái thời ông còn là đồn trưởng đồn 99, bản Giàng bấy giờ, cứ mỗi lần về ăn Tết, các chiến sỹ biên phòng mỗi ngừoi vẫn có vài cân nếp, 1 con gà, vài lít mật mía… Trồng mía, nuôi gà, làm rẫy, làm tất cả để bộ đội có thể ăn no, đời sống chiến sỹ được cải thiện, ông luôn xoay xở được trong tất cả những thời điểm khó khăn, vất vả nhất.Ông ghi tên mình trong lịch sử của lực lượng Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh với danh hiệu Anh hùng khi còn là anh trinh sát mới 29 tuổi ở Lào và ông cũng để lại dấu ấn rất riêng trong tác phong, kỷ luật, hành động của những chiến sỹ biên phòng Hà Tĩnh trong thời gian 13 năm làm chỉ huy trưởng từ 1987-2000.
Võ Hồng Tuyên (đứng) và đồng đội trong những ngày chiến đấu ở Lào. Ảnh do nhân vật cung cấp |
Trong căn nhà hai tầng ẩn hiện sau những tán cây, có một căn phòng nhỏ lưu giữ những bức ảnh của ông một thời. Bức ảnh với đồng chí Nường, một người bạn chiến đấu ở Lào trong cánh rừng Lào trước khi ra trận được phóng to trân trọng.
Năm 1961, chuẩn úy Võ Hồng Tuyên là một trong những trinh sát ngoại biên đầu tiên tham gia tổ công tác 3 mặt tại Lào, có nghĩa là Vận động quần chúng, trinh sát bí mật và vũ trang chiến đấu. Ngày 23/7/1962, sau khi 14 nước tham dự họp ở Giơnevơ ký kết hiệp định với Lào, cách mạng Lào chuyển sang hoạt động hiệp thương thì địch ra sức phá hoại đường lối hòa bình trung lập, hòa hợp dân tộc của Chính phủ vương quốc, tập hợp thổ phỉ cũ hoạt động chiến tranh tâm lý, tăng cường thám báo nắm tình hình lực lượng ta ở biên giới, tung gián điệp, biệt kích xâm nhập nội địa ta nhằm mưu đồ tấn công miền Bắc. Hai tổ trinh sát, trong đó có ông ở lại Lào tiếp tục hoạt động. Ông lấy tên là Khăm Phay,vừa là cố vấn cho bạn Lào trong đánh địch và xây dựng lực lượng, vừa là chỉ huy tổ trinh sát tham gia đấu tranh vũ trang. Cùng với một Trung đội dân quân Lào và tiểu đoàn 927 Bộ đội Pathét Lào đánh từ Teng Đeng, Nọng Hến đến bản Thoọng Nhạy, giải phóng toàn bộ vùng này, kêu gọi đầu hàng 2 đại đội phỉ, thu toàn bộ súng ống.
Trong nhiều chiến công của chuẩn úy Võ Hồng Tuyên trong thời kỳ ở Laò phải kể đến chiến công mưu trí, gan dạ, dũng cảm cùng với một người bạn Lào bắt 11 tên biệt kích. Ngày 26/1/1967, sau trận đánh ở bản Thoọng Nhạy, Khăm Phay( tức chuẩn úy Võ Hồng Tuyên) và Bun Nhưn, một người bạn Lào đã trông thấy 5 máy bay, trong đó có 2 trực thăng bay lượn trên thung lũng Napê. Napê là một thung lũng thuộc huyện Căm cớt, tỉnh Bô ly khăm xay, phía đông cách biên giới Việt Lào khoảng 12 km, phía Bắc cách đồn 93- Cầu Treo- Hà Tĩnh khoảng 32 km.Nhận định địch có thể thả biệt kích giữa biên giới ta và bạn, Khăm Phay ( tức Võ Hồng Tuyên) cho người về báo tin. Lực lượng truy lùng tại chỗ chia làm 2 tổ, tổ 1 do Khăm Phay phụ trách với đồng chí Nường, một tổ nữa do đồng chí Thào Kẹo – xã đội trưởng phụ trách cùng một số dân quân tư vệ Lào.
Leo lên đỉnh núi bắt đầu quan sát và thấy chiếc trực thăng hạ cánh từ từ xuống thung lũng Napê, hai anh em bắt đầu đi theo hướng máy bay hạ cánh. Phát hiện có mấy tên mặc đồ đen bắt đầu bươi cát ở khe suối lấp thức ăn, thực phẩm và nước uống. Trời khoảng 4-5 h chiều. Địch thì 11 tên. Chỉ có 2 anh em, Khăm Phay ( tức Tuyên) quyết tâm đánh. Nếu bỏ qua cơ hội thì trời tối mất. Anh trao đổi nhanh với đồng chí Nường, bạn Lào và triển khai kế hoạch. Khăm Phay sẽ hô Đại đội 1, bao vây bên phải. Còn Nường hô: Trung đội 1 bao vây bên trái…
Rừng Lào chiều xuống rất nhanh. Lúc này trời đã nhá nhem tối.Khăm Phay bắn 1 phát súng đanh gọn chia cắt đội hình. Đồng chí Nường bắn 3 phát kế tiếp, một phát làm rơi mũ một tên. Khăm Phay dựa vào gốc cây bắn thêm viên nữa khiến 1 tên bị thương vào chân. Cùng với tiếng súng, hai anh em cùng hô bao vây…bằng cả tiếng Lào và tiếng Việt, đồng thời kêu gọi: Nằm sấp xuống. Hàng thì sống, chống thì chết”. Toán biệt kích quá bất ngờ hoảng loạn , tưởng sa vào ổ phục kích, không kịp trở tay, ngoan ngoãn tuân theo hiệu lệnh. Nhanh như chớp, Nường cướp súng, xả đạn ra, thu được 13 khẩu AK, 12 khẩu súng ngắn, 1 khẩu ám sát, 7 máy điện đài. Khăm Phay canh chừng cho đồng chí Nường lấy giây dày trói cập cánh địch… Thấy quá lâu mà không thấy đại đội, trung đội nào xuất hiện, một số tên vùng dậy bỏ chạy. Lúc này, hai anh em đã trói được 5 tên địch.Trời tối hẳn, rất may sau đó có được sự yểm trợ của đồng đội ở đồn 563. Ngay trong đêm, tổ trinh sát của Khăm Phay tiếp tục truy lùng bắt thêm được 1 tên nữa.
Và khoảng 10 ngày sau đó, tổ tiếp tục phối hợp đồn biên phòng, lực luợng dân quân tự vệ Lào tổ chức lực lượng truy lùng trong rừng sâu, bắt hết những tên còn lại trong tình trạng thảm hại. Chân không buớc đi được vì đói, quần bị gai cào đứt lên tận gối, sót lại một chiếc đồng hồ, 1 khẩu ám sát. Tóan gián điệp biệt kích mang bí danh Hadley do tên Lê Văn Ngung, sinh năm 1945 quê ở Đan Phượng – Hà Đông di cư vào Nam đã bị ta bắt gọn. Nhiệm vụ của toán này là thám sát tình báo quân sự trên tuyến đường 8, dò tìm các mục tiêu quân sự cuả ta để ném bom bắn phá, nắm tình hình chi viện của miền Bắc với miền Nam, nhất là các tuyến giao thông mà kẻ địch chưa biết. Thắng lợi này đã tạo tiền đề cơ bản cho chuyên án K50, thể hiện sự nhạy bén, sáng tạo của lực lượng vũ trang Hà Tĩnh.
Thành công lớn nhất của chuyên án là chúng ta đã dùng địch địch để câu nhử địch, dùng địch để tấn công địch, khiến địch trong một thời gian dài vẫn đinh ninh toán HADLEY vẫn hoạt động. Ta đã tách chúng ra để đấu tranh khai thác, chỉ để lại 2 tên lính truyền tin là Phúc và Khoa. Theo lời kể của ông Võ Hữu Duyệt, đại tá công an Hà Tĩnh về hưu, tổ trưởng của chuyên án thì dưới sự giúp đỡ của Cục phản gián, tất cả những tin hai tên Phúc và Khoa truyền cho phủ đặc ủy tình báo Sài gòn đều dưới sự khống chế, giám sát của ta. Nội dung của bức điện liên lạc đầu tiên với Sài Gòn sau 24 ngày mất liên lạc là báo cáo tình hình cuả nhóm, lý do chậm liên lạc và đề nghị tiếp tế lương thực…
Trong thời gian gần 4 năm (khoảng 1300 ngày từ 1967- 1970) thực hiện chuyên án K50, có khoảng ½ thời gian liên lạc 2 chiều . Tính ra đã có 650 phiên liên lạc và ta đã nhận được khoảng 300-400 bức điện của tình báo Sài Gòn. Không khí làm việc sôi động, quên cả mệt nhọc. Riêng ông Võ Hữu Duyệt được vinh dự dự thảo khoảng 200 bức điện cho tình báo Sài Gòn. Trong 4 năm, ta bị địch kiểm tra 5 lần, có những lần hú vía. Có 1 lần, chúng điện ra hỏi : HADLEY 7 lương tháng này gửi cho ai? Ta trả lời: MIC 17. Tín hiệu an toàn sử dụng rất xảo quyệt, ta không dám chắc là tín hiệu thật, nhưng rất may không có chuyện gì xảy ra. Còn phần lớn những tin ta trả lời là tin giả, tin quá đát. Tất cả đều được Bộ phê duyệt trước khi chuyển đi.
Có lần, máy bay trinh sát của chúng hỏi: Chiến xa của Bắc Việt đi đường nào để vào đường 9? Thực ra hồi đó, máy bay của chúng không phát hiện ra đường 9 của ta và xe tăng ta đi đường đó. Vì vậy mà với những vấn đề chiến lược thì Cục phản gián, Bộ công an sẽ soạn thảo điện. Đây cũng là thời gian “biệt kích, thám báo như rươi “như cách nói của công an vũ trang thời bấy giờ. Tuy nhiên, gần như tất cả các toán biệt kích nhảy dù bằng đường bộ hay đường biển đều không thể đứng chân nổi trên đất Hà Tĩnh. Chuyên án K50 kết thúc đã giúp ta nắm được ý đồ chiến lược của Mỹ đối với đường 8 và hành lang biên giới Việt Lào, câu nhử được nhiều lực lượng địch,thu nhiều phương tiện, điện đài, vũ khí.
Tuyên, Tuyên ơi….
Khi tôi hỏi ông về những ngày tháng ở Lào, ông lúc nào cũng xua tay, kể mình vừa thôi, kể các anh em khác đi, Nguyễn Thụy, Phan Hoa Lan, Phan Văn Sâm, Nguyễn Văn Bàng… Đây là chiến công chung của Công an nhân dân vũ trang Hà Tĩnh. Ông là vậy đó. Ông rất ngại khi nói về mình. Nhưng đồng đội của ông, thủ trưởng của ông đều nói rằng, ông đã thực sự là một người con của nước Lào anh em thời kỳ đó. Và ông không chỉ có những chiến công lớn bắt nhiều toán biệt kích , mà còn là người đã đào tạo cho bạn nhiều cán bộ, sau này là những vị lãnh đạo cấp cao chính quyền, lực lượng vũ trang nhân dân của nước bạn Lào, là người đã tham gia giải phóng nhiều vùng đất bị địch chiếm đóng. Như vùng Na Mương- Bun Nhót bị địch chiếm đóng lâu nhất từ 1962-1974 với khoảng 1 tiểu đoàn cát cứ, có Sở chỉ huy ở Khăm Muộn và NàThòn.
Thời gian này, ông và đồng chí Phan Hoa Lan, Bun Nhưn ở trong nhà dân, trong thời gian từ 1965-1975, kêu gọi vợ con phỉ, tổ chức lực lượng cùng với công an và Bộ đội Pathét Lào giai phóng từ bản Na Hàng, Na Nắng, Na Mương, Bun Nhót với chiều dài 7km đường biên giới, chiều ngang 30km giáp Napê, Thà Khẹt…
Tại bản Nậm Huội, bản cuối cùng phía Nam của mặt trận, chịu bao đói rét, ngủ rừng, tóc rụng hết vì sốt rét, rồi ông ở trong nhà tên trùm phỉ Tích Chuối, vận động vợ con, được họ cưu mang. Thời kỳ này, ông lấy tên là Võ Tuyến Hồng. Ông đã 3 lần bị bắn hụt, nhưng cũng nhờ những lần đó, bằng mưu trí của mình, ông đã khiến cho địch và vợ con phỉ vốn mê tín sẵn tin rằng: Tuyến Hồng xương đồng da sắt, đạn bắn không thủng… Bao vây, tìm cách kêu gọi đầu hàng, không được bắn chết là phương pháp để ông cùng các đồng chí kêu gọi hàng ngàn lính phỉ quay súng về với Bộ đội Lào, mang lại bình yên cho nhiều vùng đất, giữ được an toàn cho bộ đội Lào hành quân. Kỷ niệm nhớ nhất của ông là được đồng chí Phò Xiêng Mun, Bí thư Tỉnh ủy Khăm Muộn tặng chiếc đài để nghe tin tức phục vụ công tác, như gửi gắm một tình cảm sâu nặng, cao quý với người con Việt.
Chủ tịch nước Lê Đức Anh thăm BĐBP Hà Tĩnh ngày 10-3-1995. Ảnh: TL |
Không thể nhớ hết những nơi mà dấu chân ông và đồng đội đã qua trên những cánh rừng Lào. Chỉ biết rằng, người dân Lào không hề quên anh Võ Tuyến Hồng gan dạ, thông minh. Sau này, khi đã là chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh, năm 1994, ông tham gia đoàn khảo sát mốc biên giới Việt Lào tại bản Tơng, một địa bàn nằm sâu trong rừng Lào, không có đường để đi. Những người đi cùng đoàn chứng kiến cảnh tượng: máy bay trực thăng bốc nhiều gạo xuống cho dân bản Tơng. Nhưng tuyệt nhiên, không một ai để ý đến gạo, mặc dù đây là địa bàn khó khăn, thiếu thốn về lương thực, thực phẩm. Mọi người ào đến khi nhìn thấy ông, ai cũng mừng rỡ gọi : Tuyên, Tuyên ! !! …. Họ đón ông như đón người con của bản đi xa lâu lắm trở về nhà…
Có một anh hùng như thế…
“Khi cấp trên hỏi, nếu tôi nghỉ, ai sẽ thay tôi. Tôi bảo: Võ Hồng Tuyên. Lúc này, mọi người còn chưa tin lắm. Nhưng tôi nhận định: Người này vừa là anh hùng, tuổi còn trẻ, đã tham gia nuôi quân, huấn luyện quân. Tính tình lại cương trực, quyết đoán, đã nói là làm, đã làm là chịu trách nhiệm”. Ông Nguyễn Khắc Hoàn, nguyên là chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh thời kỳ 1967- 1975 và 1983- 1987, cũng từng là thủ trưởng trực tiếp của ông kể lại. Từ một trinh sát trở thành anh hùng, rồi đồn trưởng, phó phòng rồi trưởng phòng trinh sát, phó chỉ huy tham mưu trưởng, ông luôn là người dám làm, dám chịu.
Trung tướng Võ Trọng Việt, Tư lệnh Bộ đội biên phòng Việt Nam, nguyên là Chỉ huy trưởng Bộ đội biên phòng Hà Tĩnh nối gót sự nghiệp ông thừa nhận rằng bị ảnh hưởng bởi tính cách quyết đoán của ông và bổ sung thêm: Đó là con người của hành động, là người có Tâm, sống vì mọi người, có tầm nhìn xa, sáng tạo, nhạy bén với thời cuộc. Những năm 89- 90, Bộ đội Biên phòng Nghệ Tĩnh được giao dẹp loạn tại vùng đá đỏ Quỳ Châu, Quỳ Hợp, nơi tập trung đầu nậu cả nước, thành lập các băng nhóm, tranh chấp lãnh địa tại đồi Tỷ, đồi Triệu. Ông trực tiếp chỉ huy, chỉ trong 1 tuần đã bắt toàn bộ đầu gấu , băng nhóm với hàng trăm người, thu nhiều vũ khí, giáo mác, gậy gộc.
Hai tuần sau đã ổn định trở laị vùng đá đỏ, giao mỏ cho Nhà nước quản lý.Sau ngày tái lập Tỉnh Hà Tĩnh lại có vụ dẹp loạn tương tự tại vàng Hòa Hải, Hương Khê…Nhiều chuyên án bảo vệ an ninh, biên giới, bờ biển bắt cướp, buôn bán ma túy, hê rôin đã thắng lợi giòn giã, làm thất bại nhiều âm mưu và hoạt động của các toán phỉ, phản động lưu vong xâm nhập, củng cố vững chắc an ninh biên giới, bờ biển. Với vai trò chỉ huy, ông là người tạo nền tảng cơ bản để bộ đội biên phòng Hà Tĩnh được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang thời kỳ đổi mới sau này.
Khi nhắc tới ông, nhiều người nhắc tới một con người trực tính” hết chỗ nói”. Có lần, cấp trên hỏi ông về công tác Đảng, công tác chính trị. Ông đã nói một câu ai cũng bất ngờ trong hoàn cảnh bấy giờ: “Công tác Đảng, công tác chính trị của tôi trước hết là bộ đội phải ăn no”. Ông làm gì cũng bằng cái Tâm, ông quy tụ anh em bằng chính sách cán bộ, bằng quân lệnh như sơn. Thẳng thắn, trực tính đến nỗi, có lần, một vị cán bộ cấp trên về tổ chức hỏi nếu chuyển ra Bộ thì việc đầu tiên anh sẽ làm gì? Sẵn có không mấy thiện cảm về cách làm việc của người này, ông trả lời: “Tôi ở cơ sở sẽ làm được nhiều việc hơn. Nhưng nếu tôi ra thì việc đầu tiên là tôi phải thay anh”.
Nhưng sau này, ông lại rất cảm động khi biết được tấm lòng bao dung của vị cán bộ cấp trên nọ: Mới đầu cũng thấy bực, nhưng lại không hề giận ông mà tâm sự rằng: “Thế mới biết, vì sao Võ Hồng Tuyên làm được những điều phi thường của một người anh hùng”. Và cũng không hiểu sao, tôi lại nghĩ đến chuyện ông từ chối làm Lãnh đạo huyện Hương Khê khi đang là đồn trưởng, nghĩ đến chuyện một người lính phục vụ nhặt được vài cái phong bì 500 ngàn đồng trong thùng rác ngoài vườn… Hóa ra, ai đó đã bỏ vào trong túi đựng hoa quả để nhờ vả ông chuyện gì đó… Trong thời đại hôm nay, có điều gì dường như hơi lạc lõng. Sự lạc lõng rất khác biệt mà khi nghĩ về ông, nghĩ về những người anh hùng, ta thấy mình như đang đứng trước biển lớn để suy nghĩ về những triết lý nhân sinh.
Lời kết
Khi tôi viết những dòng này thì anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân – Đại tá Võ Hồng Tuyên đang nằm trên giừờng bệnh. Sức khỏe giảm sút nghiêm trọng.Mấy năm gần đây, duờng như những ngày tháng sống trong những cánh rừng thiêng, nước độc ở Lào, những ngày tháng trên cương vị chỉ huy trưởng chân đi không bén đất đã bào mòn, vắt kiệt sức lực của ông. Ba năm trước, cũng vì sức khỏe giảm sút mà ông cũng đã không thể có mặt trong Lễ kỷ niệm 50 năm truyền thống bộ đội biên phòng, không được cùng các đồng đội từng kề vai sát cánh ôn lại những ngày tháng gian khổ hào hùng….
Tôi cứ nghĩ miên man đến một câu thơ nổi tiếng của nhà thơ Eptusenko “Mỗi số phận chứa một phần lịch sử”… Dù tất cả có biến đổi theo thời gian, nhưng những người đã góp phần làm nên lịch sử sẽ còn mãi được lịch sử khắc ghi... Bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh đã 2 lần phong tặng danh hiệu anh hùng, anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân trong chiến tranh và trong thời kỳ đổi mới… Và lịch sử một Hà Tĩnh chiến đấu kiên cường trong chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ… Trong thành tích vẻ vang của quê hương Hà Tĩnh nói chung và bộ đội Biên phòng Hà Tĩnh nói riêng, có tên ông, anh hùng LLVTND Võ Hồng Tuyên.