P-270 Moskit được sử dụng nhằm tiêu diệt các chiến hạm mặt nước, các tàu vận tải trong lực lượng các cụm chiến hạm công kích chủ lực, các lực lượng đổ bộ đường biển và các đoàn congvoa quân sự, các tàu cánh ngầm và các tàu chạy trên đệm khí.
Loại tên lửa này có khả năng mang đầu đạn hạt nhân. Việc phân loại chính xác loại tên lửa này không rõ ràng với rất nhiều các báo cáo khác nhau, việc này là do việc giữ bí mật xung quanh các hoạt động quân sự.
P-270 Moskit là tên lửa hành trình siêu âm sử dụng động cơ phản lực dòng khí thẳng.
Kích thước tên lửa: chiều dài 3М80, 3М80Е: 9385 mm ; chiều dài 3М80МВE 9745 mm; Đường kính tối đa của thân 760 mm; sải cánh (gấp vào/mở cánh) 1300/2100 mm
Moskit có thể đạt vận tốc cao nhất là 3 mach và vận tốc tối thiểu để duy trì độ cân bằng là 2,2 mach nhanh gấp ba lần tên lửa Harpoon của Hoa Kỳ.
Với các tên lửa có tốc độ thấp như Harpoon của Hoa Kỳ hay Exocet của Pháp thì theo lý thuyết tên lửa sẽ mất khoảng 120-150 giây để có thể đâm vào tàu chiến đối phương.
Với thời gian này các tàu chiến có thể phát hiện và vận hành hệ thống phòng thủ đánh chặn như phát sóng làm nhiễu, vận hành động cơ phóng tên lửa đánh chặn hay vận hành pháo tự động chỉnh với tốc độ cao bắn vào tên lửa.
Tên lửa Moskit có thể đánh chìm tất cả các loại chiến hạm và vô hiệu hóa cả tàu sân bay. Với 15 – 17 tên lửa Moskit có thể tiêu diệt cả một cụm tàu hải quân công kích chủ lực.
Cục Tên lửa và Pháo binh thuộc Bộ quốc phòng Liên bang Nga (GRAU) gọi nó là 3M80. Tên NATO của loại tên lửa này là SS-N-22 Sunburn. |
Tên lửa hành trình chống tàu 3М-80 được đưa vào danh sách các tổ hợp tên lửa. (Tiếng Nga: П-270 Москит, Moskit nghĩa là con muỗi) là tên lửa hành trình siêu thanh sử dụng động cơ phản lực của Nga.
Tên lửa có thể tiêu diệt tất cả các tàu có tốc độ tối đa nhỏ hơn 100 knots, trong điều kiện nhiễu xạ của trang thiết bị tác chiến điện tử đối phương và các vụ nổ, trong mọi điều kiện khí tượng và thời tiết, ngay cả trong trường hợp không gian tấn công chịu sự tác động của vụ nổ hạt nhân.
Hệ thống tên lửa này do MKB Raduga thiết kế trong những năm 1970 làm phiên bản nối tiếp của P-120 Malakhit (SS-N-9).
Nhưng với tên lửa 3M82 thì khác với tốc độ cực cao của mình nó chỉ cho các tàu chiến khoảng 25-30 giây để có thể phát hiện và vận hành hệ thống phòng thủ của mình, hệ thống làm nhiễu sẽ không hiệu quả khi tên lửa đến quá gần, không đủ thời gian để vận hành động cơ phóng tên lửa đánh chặn và tên lửa bay quá nhanh để có thể bắn vào nó với pháo tự động một cách chính xác.
Moskit được thiết kế để chống lại các hạm đội nhỏ của NATO tại biển Baltic (Đan Mạch và Đức) tại biển Đen (Thổ Nhĩ Kỳ) và các vùng khác như Thái Bình Dương (Nhật Bản, Hàn Quốc...) và bảo vệ các vị trí trọng yếu của Nga chống lại mọi cuộc tấn công đổ bộ bất ngờ.
Tên gọi P-270 được tin là mã sản xuất của lớp tên lửa này. Các biến thể của loại tên lửa này được xác định gồm có 3M80M, 3M82 (Moskit M). Còn các tên gọi bắt đầu bằng 3M được GRAU đề nghị với bộ quốc phòng là tên để chỉ chính xác các loại tên lửa. 3M80 là mẫu nguyên thủy.
Mẫu 3M80M (hay còn gọi là mẫu 3M80E để xuất khẩu) được sản xuất năm 1984 có tầm hoạt động xa hơn mẫu nguyên thủy và mẫu mới nhất là 3M82 Moskit M có tầm hoạt động xa nhất của loại tên lửa này.
ASM-MMS / Kh-41 là mẫu dùng để phóng từ trên không của Moskit.