Tuyên ngôn Độc lập được Bác soạn thảo từ ngày 28/8/1945, tại ngôi nhà 48 Hàng Ngang (Hà Nội) - ngay sau khi Chính phủ lâm thời được thành lập và Người được bầu làm Chủ tịch. Điều kiện lịch sử phức tạp lúc bấy giờ đòi hỏi Việt Nam phải nhanh chóng tuyên bố về nền độc lập của mình trước khi quân Đồng minh đổ bộ vào tước vũ khí của Nhật.
Do suy ngẫm từ lâu nên dù chỉ viết trong thời gian ngắn, nhưng từng ý tứ, từng câu chữ trong Tuyên ngôn Độc lập vẫn vô cùng chặt chẽ, súc tích, đạt đến độ mẫu mực của một văn bản nghị luận chính trị; là áng văn lập quốc vĩ đại, là văn kiện lịch sử vô giá, có giá trị cao về tư tưởng, lý luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Bác Hồ và bản Tuyên ngôn Độc lập (Ảnh đồ họa: Internet)
Tuyên ngôn Độc lập trước hết là sự khẳng định mạnh mẽ quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Trong Tuyên ngôn Độc lập, tinh thần yêu nước gắn liền với ý thức sâu sắc về chủ quyền quốc gia, dân tộc. Đó là sự tiếp nối dòng chảy của ý thức sâu sắc về núi sông bờ cõi, về giang sơn Tổ quốc. Những giá trị thiêng liêng này từng được đề cập từ bài thơ Thần (tương truyền của Lý Thường Kiệt) đến áng “thiên cổ hùng văn” Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi. Nhưng phải đến năm 1945, một tác phẩm chính danh là Tuyên ngôn Độc lập mới được Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, với mục tiêu hướng tới là toàn thể Nhân dân Việt Nam và mọi quốc gia trên thế giới, trong đó có cả các nước lớn và các thế lực ngoại xâm đang lăm le cướp đi nền độc lập vừa giành được của dân tộc Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập tuyên bố chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, mở ra kỷ nguyên độc lập, phát triển của dân tộc Việt Nam, đồng thời, thể hiện rõ thiện chí hòa bình và quyết tâm sắt đá của Nhân dân quyết bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được sau hơn 80 năm dưới ách cai trị của thực dân, phong kiến. Những lời khẳng định đanh thép như lời của non sông, đồng thời như những chân lý của thời đại: “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(1). Tuyên ngôn Độc lập cũng đưa ra lời cảnh báo mạnh mẽ đối với các thế lực thực dân, đế quốc đang âm mưu quay lại xâm lược nước ta: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(2).
Tuyên ngôn Độc lập còn là sự phát triển tài tình, sáng tạo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con người gắn với quyền dân tộc. Không phải ngẫu nhiên mà mở đầu bản Tuyên ngôn, Người trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ (1776) và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp (1791). Tuyên ngôn Độc lập của Hoa Kỳ là phát ngôn chính trị đầu tiên xác lập nguyên tắc: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng” với các quyền thiêng liêng, trong đó có “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp tiếp tục mở rộng nguyên lý ấy, khẳng định “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do, bình đẳng về quyền lợi”, từ đó đặt nền tảng cho chủ nghĩa tự do, dân chủ tư sản và nhân quyền phương Tây. Bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo không chỉ trích dẫn, mà còn “suy rộng ra” để khẳng định một chân lý có tính cách mạng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(3).
Đây là cách vận dụng khéo léo, sáng tạo, mang tính tư tưởng sâu sắc: từ quyền con người đến quyền độc lập, quyền tự quyết của các dân tộc. Từ đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng phép lập luận song hành giữa nguyên lý phổ quát và chứng cứ lịch sử để củng cố tính chính đáng cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Đây cũng là sự kết hợp giữa lý trí phương Tây và giá trị tinh thần phương Đông, giữa ngôn ngữ ngoại giao quốc tế và trải nghiệm thực tế của một dân tộc thuộc địa. Qua đó, Hồ Chí Minh biến tư tưởng nhân quyền phương Tây thành lý lẽ sắc bén để bảo vệ quyền độc lập, tự do của các dân tộc, điều mà cả 2 bản tuyên ngôn của Mỹ và Pháp đều chưa đề cập rõ ràng. Như vậy, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn có giá trị thức tỉnh lương tri nhân loại. Nó là minh chứng rằng, quyền con người không chỉ là lý thuyết dành cho những quốc gia đã “phát triển”, mà còn là nhu cầu chính đáng và cấp thiết của các dân tộc bị áp bức, trong bối cảnh phong trào giải phóng dân tộc đang lan rộng ở thế kỷ XX, đặc biệt là sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.
Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một văn bản nghị luận vững chắc về lập luận, lý lẽ, bằng chứng mà còn hết sức gợi cảm, hùng hồn, sáng rõ về ngôn từ. “Và đằng sau những lý lẽ ấy là một tầm tư tưởng, văn hóa lớn, đã tổng kết được trong một văn bản ngắn gọn, trong sáng, khúc chiết, kinh nghiệm của nhiều thế kỷ đấu tranh vì độc lập, tự do, vì nhân quyền, dân quyền của dân tộc và nhân loại”(4).
Sau 80 năm, những giá trị bất hủ của Tuyên ngôn Độc lập vẫn có ý nghĩa to lớn, soi sáng con đường đi lên của dân tộc ta trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình phát triển giàu mạnh, phồn vinh. Tuyên ngôn Độc lập thể hiện tầm nhìn thời đại của Hồ Chí Minh: kiên trì với lý tưởng độc lập, tự do của dân tộc, vận dụng sáng tạo những giá trị tiến bộ chung của nhân loại, biết phát huy sức mạnh nội lực để khơi dậy sức mạnh to lớn của toàn dân, từ đó vượt qua mọi gian khổ, khó khăn trên con đường phát triển.
------------------------------
-(1), (2), (3). Hồ Chí Minh, Toàn tập (tập 4), Nxb Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 1, 3.
(4). Nguyễn Đăng Mạnh, “Tuyên ngôn Độc lập”, trong sách: Phân tích, bình giảng tác phẩm văn học 12, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2001.