Phong cách lãnh đạo là mẫu hành vi thể hiện bản sắc nhân cách người lãnh đạo trong mối quan hệ biện chứng với môi trường. Lý luận khoa học hiện đại và thực tiễn đã chứng minh, trong quá trình lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo cần sử dụng phối hợp, linh hoạt, sáng tạo các phong cách lãnh đạo (độc đoán, dân chủ, tự do), trong đó phong cách dân chủ là phong cách có nhiều thành công nhất. V.I Lênin đã đề xuất phong cách lãnh đạo xã hội chủ nghĩa (được gọi là phong cách Lêninít), trong đó nhấn mạnh tư tưởng cộng sản chủ nghĩa, tính nguyên tắc Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với quần chúng; có lý rưởng cộng sản, ý thức trách nhiệm trong nhân cách; làm việc theo quan điểm khoa học và văn hóa, đảm bảo tính chuyên nghiệp và thông thạo, …Như vậy, Lênin đã nhấn mạnh tính chất cộng sản của phong cách lãnh đạo dân chủ. Phong cách Lêninnit là phong cách dân chủ kiểu mới - dân chủ cộng sản - dân chủ thực sự của đông đảo quần chúng nhân dân mà nòng cốt là giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh là sự vận dụng và phát triển sáng tạo phong cách Lêninít vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, mang bản sắc văn hóa Việt Nam. Đó là phong cách dân chủ Việt Nam - dân chủ Hồ Chí Minh.
Hiện nay chưa thống nhất cách hiểu về phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh. Một số người cho rằng Hồ Chí Minh có nhiều phong cách lãnh đạo như quần chúng, dân chủ, thiết thực, giản dị, khoa học, …Theo chúng tôi, Hồ Chí Minh luôn quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo phong cách dân chủ cộng sản của Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, tạo nên đặc trưng, những nét độc đáo, đặc sắc trong phong cách dân chủ của Người.
Dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ quần chúng. Quần chúng là nguồn gốc, là mục đích của phong cách dân chủ Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh luôn sâu sát, quan hệ mật thiết với quần chúng, nắm bắt sâu sắc tình hình thực tế, nhất là thực tế đời sống, thực tế tâm lý, văn hóa của họ để quan tâm, chăm lo lợi ích chính đáng và thiết thực của họ. Người luôn tâm niệm: “làm sao cho dân ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”, “Việc gì có lợi cho dân thì hết sức làm, việc gì có hại cho dân thì hết sức tránh”, “ Bao nhiêu cách tổ chức và cách làm việc đều vì lợi ích của quần chúng. Vì vậy, cách tổ chức và cách làm việc nào không phù hợp với quần chúng, thì phải bỏ đi hoặc sửa lại,…”.
Bản chất dân chủ Hồ Chí Minh, trước hết là tình thương yêu bao la và niềm tin tưởng vô tận đối với quần chúng. Hồ Chí Minh đến với quần chúng một cách tự nhiên, bình dị với nụ cười hiền hậu, giọng nói ấm áp và vòng tay rộng mở thể hiện lòng nhân ái bao la, sự quan tâm, tôn trọng, đồng cảm đến mức thấu cảm – hòa đồng với họ. Người nói: “ Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta”; “ Mỗi người dân có nỗi đau khổ riêng, gộp tất cả là nỗi đau khổ của tôi”. Thấm nhuần sâu sắc quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin: quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng; Hồ Chí Minh có lòng tin vô tận đối với quần chúng, luôn chăm lo tăng cường mối liên hệ mật thiết với quần chúng và coi đó là nguồn sức mạnh tạo nên mọi thắng lợi của cách mạng. Theo Người, “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì cũng không nên”; “ Chúng ta phải biết rằng: lực lượng của dân chúng nhiều vô kể. Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”; “ Dễ trăm lần không dân cũng chịu. Khó vạn lần dân liệu cũng xong”(1). Dựa vào quần chúng để lãnh đạo quản lý, nhằm phục vụ lợi ích quần chúng là đặc trưng cơ bản, thể hiện đặc trưng bản chất của phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh. Lòng thương yêu bao la, niềm tin tưởng vô tận đối với quần chúng, lý tưởng cộng sản- tất cả vì lợi ích chính đáng và thiết thực của quần chúng ở Hồ Chí Minh đã làm cho tác phong, phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh trở thành phong cách dân chủ Hồ Chí Minh, thể hiện bản sắc nhân cách hết sức cao đẹp của Người.
Dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ có sự lãnh đạo của Đảng. Khi đề ra đường lối, chính sách, giải quyết nhiệm vụ chính trị, theo Hồ Chí Minh, cần phải học dân chúng, phải hỏi dân chúng, phải hiểu dân chúng, phải dùng kinh nghiệm dân chúng để thêm cho kinh nghiệm của mình. Người nhấn mạnh “ Mỗi một khẩu hiệu, mỗi một công tác, mỗi một chính sách của chúng ta, phải dựa vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân chúng”; “1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng. 2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”(2). Tuy nhiên, dân chủ của quần chúng nhân dân, theo Người, phải có sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối, thống nhất của Đảng theo nguyên tắc dân chủ tập trung . Trong Di chúc để lại, Người dạy: “Đảng ta là Đảng cầm quyền…Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.Người lý giải: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”(3). Tập trung trong lãnh đạo, theo Người là thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, toàn Đảng phục tùng Trung ương, tất cả mọi đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của tổ chức đảng; là cá nhân phụ trách (phát huy tinh thần trách nhiệm, lý tưởng cộng sản, tính quyết đoán và năng lực tư duy của người lãnh đạo). Dân chủ trong lãnh dạo phải mở rộng và thực hành dân chủ trong Đảng, làm cơ sở mở rộng, phát huy dân chủ ngoài xã hội; là tập thể lãnh đạo (phát huy trí tuệ, kinh nghiệm của tập thể). Chủ tich Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh nghiệm đến đâu, cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc một số mặt của một vấn đề. Vì vậy phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm, người thì thấy rõ mặt này, người thì trông thấy mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh nghiệm và sự xem xét của nhiều người thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt. Mà có thấy rõ khắp mọi mặt thì vấn đề mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm”. Do vậy, “nếu lãnh đạo không tập thể thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc”. Tuy nhiên, tập thể lãnh đạo phải luôn đi đôi với cá nhân phụ trách – tập trung, bởi như Người dạy :" Việc gì đã được đông người bàn bạc kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng rồi thì cần phải giao cho một người hoặc nhóm ít người phụ trách (cấp ủy, thường vụ và người đứng đầu cấp ủy cấp trên) theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy. Cá nhân phụ trách phải có đạo đức cách mạng “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nhân, nghĩa, trí, dũng” với các hạt nhân là tinh thần trách nhiệm (cần), lý tưởng cộng sản – tính đảng (chí công vô tư), tính quyết đoán (dũng); phải có năng lực (tài) với hạt nhân là tư duy độc lập, sáng tạo (trí) “hay nghiên cứu xem xét”, “hay xem xét người”, “xem xét hoàn cảnh kỹ càng”. Dân chủ dẫn tới tập trung là đảm bảo tính kỷ luật, sự đoàn kết thống nhât trong lãnh đạo. V.I Lênin từng dạy: “ Phải làm cho ý chí hàng ngàn người phục tùng ý chí một người”. Phát huy dân chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng là đặc trưng cơ bản, thể hiện nội dung phong cách dân chủ Hồ Chí Minh. Bằng cách phát huy dân chủ này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta lãnh đạo và tổ chức thành công 13 kỳ bầu cử Đại biểu Quốc hội, thực hiện tốt công tác đánh giá, bổ nhiệm và sử dụng cán bộ, làm cho hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh, chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng được nâng cao, những người thực sự có tài, có đức luôn được trọng dụng và tôn vinh.
Dân chủ Hồ Chí Minh là dân chủ có tư duy, có trí tuệ. Khi đề ra đường lối, chính sách, chỉ thị, giải quyết mọi công việc, nhiệm vụ, Hồ Chí Minh luôn xuất phát từ tình hình thực tế, nhất là thực tế tâm lý của quần chúng; lắng nghe mọi ý kiến( tư duy, trí tuệ) của quần chúng; kế thừa, vận dụng tinh hoa văn hóa nhân loại như những tinh hoa của nho học, phật giáo, lão giáo, chủ nghĩa tam dân (Trung Quốc), thuyết bất bạo động của Găng đi (Ấn độ), quan điểm nhân văn pháp, đặc biệt là học thuyết Mác- Lênin để tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo. Người căn dặn: “Gặp mỗi vấn đề, ta phải đặt câu hỏi: Vì sao có vấn đề này ? Xử trí như thế này, kết quả sẽ ra sao ? Phải suy tính kỹ lưỡng. Chớ hấp tấp, chớ làm bừa, chớ làm liều. Chớ gặp sao làm vậy”. (4) Dân chủ có tư duy, trí tuệ là nét đặc sắc, độc đáo của phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh. Bằng cách tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong phát huy dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cùng Đảng ta sáng tạo ra biết bao phương pháp và nghệ thuật quân sự chưa hề có trong từ điển cũng như kinh nghiệm quân sự thế giới để đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, thống nhất nước nhà. Cũng chính bằng cách lãnh đạo này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng ta đã sáng tạo ra con đường phát triển đất nước: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước kinh tế kém phát triển, không kinh qua chủ nghĩa tư bản, bằng cách dựa vào sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc, kinh nghiệm và trí tuệ quần chúng, thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế, tăng cường an ninh quốc phòng, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay, phong cách lãnh đạo dân chủ Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị, luôn định hướng, dẫn đường cho việc tìm tòi, sáng tạo các giải pháp lãnh đạo quản lý có hiệu quả, bền vững trên mọi lĩnh vực. Học tập và làm theo phong cách lãnh đạo Hồ Chí Minh là nội dung cơ bản trong đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý hiện nay. Xu hướng lãnh đạo chung hiện nay là quán triệt và vận dụng sáng tạo phong cách dân chủ Hồ Chí Minh, đã được quán triệt và thể hiện sâu sắc trong Nghị quyết, các Văn kiện trình Đại hội XI của Đảng. Đó là dựa vào nhân dân để phát huy quyền làm chủ, tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của họ, trên cơ sở tri thức khoa học công nghệ hiện đại, lý tưởng cộng sản, tinh thần trách nhiệm, tính quyết đoán và năng lực tư duy của người lãnh đạo, của cấp ủy và thường vụ các cấp, nhằm giải quyết xuất sắc mọi nhiệm vụ, thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
--------------------------
(1), (2), (3), (4). Hồ Chí Minh,Toàn tập, NXB CTQG, H. 2002, Tập 5, tr 293; 297 – 298; 505; 239.