Sáng nay (1/6), Quốc Hội thảo luận tại hội trường về kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và ngân sách nhà nước năm 2021; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2022; tổng kết việc thực hiện Nghị quyết số 42/2017/QH14 ngày 21/6/2017 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và việc kéo dài thời hạn áp dụng toàn bộ quy định của Nghị quyết này. |
Toàn cảnh cuộc họp (Ảnh: baochinhphu.vn)
Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ nhất trí với báo cáo của Chính phủ và Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Kinh tế và Ủy ban Tài chính - Ngân sách về đánh giá bổ sung kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2021; tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2022.
Tuy nhiên, đại biểu Thơ cho rằng, báo cáo của Chính phủ năm nay giống như các năm trước, tiếp tục phản ánh công tác cổ phần hóa, thoái vốn tại DNNN không đạt yêu cầu và còn nhiều khó khăn.
Tính cả giai đoạn 2016-2020, cổ phần hoá các DNNN chỉ đạt 23% kế hoạch dự kiến bán, đặc biệt, năm 2021, thu từ nguồn cổ phẩn hóa, thoái vốn nhà nước tại DNNN đạt rất thấp so với dự toán, chỉ đạt 4,4 nghìn tỷ/40 nghìn tỷ đồng (tương đương tỷ lệ 11% dự toán), tăng chủ yếu do thu hồi vốn ngân sách địa phương đầu tư tại doanh nghiệp thuộc địa phương quản lý. Vấn đề này, báo cáo cần phải phân tích, đánh giá lại một cách thấu đáo hơn, đâu là nguyên nhân cốt lõi, tại sao lại khó thực hiện đến vậy, liệu các quy định pháp luật trên có đảm bảo tính thực thi hay không? Nếu là do yếu tố tổ chức thực hiện thì ai sẽ là người phải chịu trách nhiệm? Và trách nhiệm đến đâu?
Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ phát biểu tại hội trường.
Qua tìm hiểu và tập hợp ý kiến cử tri, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ cho rằng, có 2 vấn đề còn tồn tại từ quy định chính sách pháp luật, làm chậm quá trình cổ phần hóa, thoái vốn DNNN, cụ thể:
Thứ nhất, việc ban hành mới và liên tục chính sách, chế độ về cổ phần hoá, thoái vốn dẫn đến nhiều doanh nghiệp đang quá trình triển khai thực hiện kế hoạch lại phải thực hiện lại quy trình thủ tục từ đầu, nhất là những vấn đề liên quan đến phương án sử dụng đất sau cổ phần hóa và xác định giá trị doanh nghiệp.
Thứ hai, hệ thống văn bản nhiều nhưng một số quy định chưa rõ ràng, đầy đủ và thiếu tính khả thi, gây khó khăn trong quá trình triển khai, thực hiện. Cụ thể: Một số khó khăn lớn từ xác định giá trị doanh nghiệp, đặc biệt là vấn đề xác định giá trị quyền sử dụng đất gắn liền với tài sản doanh nghiệp khi cổ phần hoá, do sự biến động về giá đất từng thời kỳ, giá trị quyền sử dụng đất tính vào giá trị doanh nghiệp có nhiều cách hiểu khác nhau, còn vướng mắc trong việc thống nhất cách xác định mức giá và phương thức tính tiền thuê đất 1 năm hay nhiều năm. Vấn đề này cho đến nay vẫn chưa được hướng dẫn cụ thể, làm cho chính quyền địa phương lúng túng khi triển khai, chậm quyết định thực hiện nhiệm vụ; các quy định pháp luật liên quan đến xác định lợi thế thương mại chưa được hướng dẫn một cách rõ ràng, dẫn đến việc định giá doanh nghiệp nhiều khi chưa chính xác làm cho các doanh nghiệp khó có thể thực hiện thành công nhiệm vụ cổ phần hóa.
Bên cạnh một số vướng mắc từ chính sách pháp luật, việc triển khai cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước từ một số doanh nghiệp chưa đạt yêu cầu, đó là: Công tác lập kế hoạch cổ phần hoá, thoái vốn nhiều khi còn mang tính hình thức, một số doanh nghiệp chưa thực sự nghiêm túc, quyết liệt trong việc triển khai kế hoạch cổ phần hoá, thoái vốn theo danh mục được phê duyệt và điều quan trọng là việc gắn trách nhiệm của người đứng đầu với kết quả sắp xếp, đổi mới DNNN chưa được thực hiện một cách triệt để. Bên cạnh đó, sự vào cuộc, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc hoàn thành kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn của DNNN chưa thực sự được coi trọng.
Nếu như những vấn đề này không có giải pháp đủ mạnh thì e rằng năm sau và những năm sau nữa, các báo cáo về kết quả cổ phần hóa, thoái vốn DNNN sẽ khó có thể đạt được kết quả như mong muốn.
Từ đó, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ đề xuất một số kiến nghị như sau:
Thứ nhất, đề nghị Bộ Tài chính nhanh chóng tham mưu Chính phủ ban hành chính sách nhất quán về phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp, xác định giá trị quyền sử dụng đất một cách chính xác. Trong đó có tính đến yếu tố chênh lệch khung giá đất giữa các địa phương, khung giá đất Nhà nước quy định so với giá thị trường.
Thứ hai, cần rà soát, tính toán lại và trong trường hợp không có các nhà đầu tư chiến lược và việc cổ phần hóa tại một số DNNN là không khả thi thì nên chăng một số doanh nghiệp không hoặc chưa đưa vào danh sách cổ phần hoá giai đoạn tiếp theo, theo đó, Nhà nước cơ cấu lại các doanh nghiệp này. Một mặt, Nhà nước vẫn duy trì nguồn thu cố định từ lợi nhuận hoạt động kinh doanh, mặt khác, đảm bảo cho kế hoạch cổ phần hóa, thoái vốn DNNN được thực thi một cách hiệu quả, đảm bảo mục tiêu đề ra.
Thứ ba, có chế tài xử lý người đứng đầu cơ quan, đơn vị, tập đoàn kinh tế, tổng công ty, DNNN không hoàn thành hoặc không triển khai thực hiện cổ phần hoá, thoái vốn, cơ cấu lại DNNN theo kế hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Thứ tư, cơ quan quản lý nhà nước cần có sự vào cuộc, sát cánh, đồng hành cùng các doanh nghiệp, giúp các doanh nghiệp tháo gỡ các khó khăn trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn DNNN.