Lời ăn tiếng nói của người Xứ Nghệ

(Baohatinh.vn) - Cho đến nay, trong quan niệm chung của nhiều người và đặc biệt là giới ngôn ngữ học, có một tiếng nói riêng của người Xứ Nghệ và họ quy tiếng nói Nghệ vào loại hình của một phương ngữ, khác với tiếng nói phổ thông ở ngoài Bắc và trong Nam. Có thật như thế hay không?...

Mát xanh Ngàn Phố. Ảnh: Đậu Bình

Mát xanh Ngàn Phố. Ảnh: Đậu Bình

Tôi cho rằng, tiếng Nghệ không phải là một phương ngữ, bởi vì bên cạnh cái gọi là tiếng Nghệ đó, thì người Nghệ vẫn nói được tiếng phổ thông như dân cư sống khắp mọi miền đất nước. Không có tiếng Nghệ riêng, dành cho người Xứ Nghệ, mà những gì được gọi là tiếng Nghệ đó, thực chất là tiếng Việt được gạn lọc và tồn tại xuyên suốt lịch sử của dân tộc Việt, kể từ khi hình thành người Việt cổ, khoảng 4.000-2.500 năm cho đến nay. Hay nói cách khác, tiếng Nghệ là bảo tàng sống của tiếng Việt cổ cho đến trước thời hiện đại.

Bảo tàng sống của tiếng Việt cổ

Để chứng minh cho nhận định trên, xin được đơn cử một số cứ liệu để làm bằng: Tiếng nói của người Nghệ Tĩnh và của cả nước nói chung, nhất là ở vùng Bắc Trung bộ và Bắc bộ cho đến cuối thế kỷ XIX dường như tương đồng, sự khác biệt là không đáng kể. Điều này được phản ánh thông qua sự so sánh tiếng nói của người Xứ Nghệ và những ghi chép trong thư tịch. Hãy bắt đầu bằng Truyện Kiều của Nguyễn Du. Văn chương Truyện Kiều là văn chương của Việt Nam thế kỷ XVIII, bất cứ một người dân Việt nào đọc Truyện Kiều cũng hiểu đó là văn chương phổ thông, không phải là riêng biệt của một vùng quê nào, cho dù đó là Thăng Long hay Kinh Bắc (quê mẹ ông), Thái Bình (quê vợ ông) và lại càng không phải là của riêng Xứ Nghệ, như có nhiều người ngộ nhận.

Trong Truyện Kiều, tiếng phổ thông thời Nguyễn Du dần dần bị biến thể, không còn nguyên như thuở trước, thậm chí, có một số âm từ cổ trở thành ngôn ngữ “chết”, chỉ có thể tồn tại ở đâu đó; sơ bộ chúng tôi thống kê được hơn 600 từ (kể cả âm đọc và chữ viết) mà những từ đó không lưu hành trong tiếng nói phổ thông từ sau thế kỷ XX, chỉ còn lại trong những ghi chép trước thế kỷ XIX, nhất là trong các bộ từ điển và trong tiếng nói thường ngày của cư dân Nghệ Tĩnh cho đến tận ngày nay. Sau đây là một số trường hợp:

Âm và từ đều. Đều trong tiếng cổ là đều tiếng, đều nọ đều kia… mà trong Truyện Kiều xuất hiện đến những hơn 40 lần, như: Đừng đều nguyệt nọ hoa kia/ Những đều trông thấy mà đau đớn lòng/ Đều đâu bay bốc ai làm/ Phải đều lòng lại dối lòng mà chơi/… Trong các bản chữ nôm của Truyện Kiều, các ký tự đọc là đều, vậy mà, trong các bản phiên âm quốc ngữ Truyện Kiều từ thế kỷ XX trở đi lại đọc thành điều. Từ đều đến điều là quy luật biến âm của ngôn ngữ, nhưng không vì thế mà loại bỏ đều ra khỏi tiếng nói từ trước thế kỷ XX. Trong tiếng phổ thông không còn là đều nữa, nhưng trong tiếng nói của người Xứ Nghệ cho đến nay vẫn còn lại rất nhiều trường hợp sử dụng đều, nhất là trong tiếng nói hàng ngày.

Chợ quê vùng biển. Ảnh: Đậu Bình

Chợ quê vùng biển. Ảnh: Đậu Bình

Âm và từ lòn. Lòn trong tiếng nói truyền thống là để chỉ hành vi luồn cúi thấp hèn, mất tư cách và lời nói cầu cạnh của kẻ yếu thế, nịnh bợ; trong Truyện Kiều được thể hiện ở các câu: Tính bài lót đó lòn đây/ Vào lòn ra cúi công hầu mà chi! Các văn bản Truyện Kiều nôm phải được đọc là lòn, vậy mà, trong các bản Truyện Kiều quốc ngữ lại đọc ra luồn. Trong tiếng Việt trước thế kỷ XX, lòn và luồn không chỉ khác âm đọc mà còn khác cả ngữ nghĩa, lòn như đã nói ở trên, còn luồn là hành động xuyên qua cái gì đó, như xe chỉ luồn kim. Cũng vì sự phát triển của ngôn ngữ mà trong tiếng phổ thông đương đại, 2 âm và từ này được hiểu như nhau. Trong khi đó, ở Xứ Nghệ, cho đến nay vẫn có sự phân biệt rõ ràng giữa lòn và luồn.

Chúng tôi có thể dẫn ra các trường hợp như thế để nói lên rằng, tiếng Việt phổ thông trước thế kỷ XX, một số trong đó, dần dần đã bị biến âm, không còn được thông dụng trong dân cư nhiều vùng khắp ngoài Bắc trong Nam; nhưng đối với cộng đồng dân cư Nghệ Tĩnh, vẫn là tiếng nói hàng ngày, như một bảo lưu truyền thống; hay nói cách khác, đó là những gì thuộc về gia bảo mà ông cha để lại cho mai sau, cần phải trân trọng và kế thừa.

Như vậy, chỉ riêng Truyện Kiều của Nguyễn Du, ngôn ngữ Truyện Kiều là ngôn ngữ của Đại Việt cho đến trước thế kỷ XIX, đó không phải là của riêng tiếng Nghệ, mà một số trong đó nay chỉ còn lại trong dân cư Xứ Nghệ. Cũng vì vậy mà ai đó muốn chứng minh, ngôn ngữ Truyện Kiều của Nguyễn Du là ngôn ngữ Xứ Nghệ là một sai lầm, là sự phân biệt một cách vô căn cứ tiếng Việt cổ truyền thống nói chung với tiếng nói của dân cư Xứ Nghệ nói riêng. Có thể khẳng định thêm rằng, tiếng Nghệ cho đến ngày nay là những gì còn lại của tiếng Việt truyền thống, đã xuyên suốt hàng ngàn năm lịch sử.

Ngược lên thế kỷ XV, với Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi, chúng tôi cũng đã tìm thấy nhiều âm từ của tiếng nói phổ thông thời đó, chỉ còn lại trong tiếng Nghệ Tĩnh đương đại. Trong đó, có một số âm - từ, như: chon chen, chon von, chót vót, chộ, chủi, lằn, lẹt đẹt, lưng, quảy, rạnh, thốt, vướng vít, xống áo… đã và đang bị đọc sai trong các phiên nôm ra quốc ngữ. Chẳng hạn: Lẹt đẹt trong câu: Tài lẹt đẹt nhiều nên kém bạn, bị đọc thành lẹt lạt. Lặn lội trong câu: Lặn lội làm chi cho nhọc hơi, bị đọc thành lặn lọc. Chộ trong câu: Chộ đánh vô can ắt phải đòn, bị đọc thành trợ đánh.

Tiếng Nghệ, mối quan hệ với tiếng Mường và Tày - Thái cổ

Tiếng Nghệ, như đã trình bày ở trên, không chỉ là tiếng Việt truyền thống và phổ thông cho đến trước thế kỷ XX, mà còn có cội nguồn từ xa xưa, thậm chí, đến hàng ngàn năm trước. Ở đây, chúng tôi muốn nói đến mối quan hệ cội nguồn giữa tiếng nói Nghệ với tiếng nói Mường và tiếng Tày - Thái cổ.

Tiếng Nghệ Tĩnh cho đến nay, không phải là tiếng riêng của dân cư Xứ Nghệ

Tiếng Nghệ Tĩnh cho đến nay, không phải là tiếng riêng của dân cư Xứ Nghệ

Trước hết, nói về quan hệ giữa tiếng Nghệ Tĩnh với tiếng Mường. Như đã có lần chúng tôi chứng minh rằng, từ vựng cơ bản (từ sinh hoạt truyền thống) của tiếng Mường và tiếng Nghệ có tỷ lệ tương ứng 1: >1, hay nói cách khác, 2 thứ tiếng này vốn là một, có chung nguồn gốc tiếng Việt cổ; nhưng trong tiến trình lịch sử, bộ phận người Việt sinh sống ở vùng rừng núi hẻo lánh, ít bị thay đổi, thiếu giao lưu, nên bảo lưu nhiều từ vựng cổ; trong khi đó, người Việt vùng đồng bằng, giao lưu nhiều hơn, tiếng nói luôn thay đổi; do đó, tiếng Mường khác với tiếng nói đồng bằng Bắc bộ, trong khi đó, tiếng Nghệ, tuy có thay đổi, nhưng vẫn còn giữ lại nhiều âm Việt cổ như tiếng Mường. Chẳng hạn, một số từ vựng trong tiếng Nghệ và tiếng Mường, cho đến nay vẫn là từ vựng chung, như: eng = anh, ló = lúa, xeng = xanh, mẹng = miệng… Lý giải hiện tượng có chung tiếng nói Việt - Mường là vì lịch sử của 2 cộng đồng người Việt này vốn là người Việt cổ, cho đến cuối thế kỷ XIX, chính quyền của người Pháp chia tách và cắt một bộ phận đất phía Nam phủ Hưng Hóa làm tỉnh Mường (tức tỉnh Hòa Bình ngày nay). Trên cơ sở đó, người ta tách bộ phận người Việt ở vùng rừng núi thành một dân tộc riêng, gọi là dân tộc Mường.

Thứ hai, tiếng Việt Nghệ Tĩnh còn có mối quan hệ cội nguồn với tiếng Thái. Đó là một sự thật lịch sử, cho dù đến nay, chưa có một tài liệu quan phương nào nói đến. Những tồn tại của tiếng Thái đã và đang in đậm trên đất đai và trong con người Xứ Nghệ đương đại. Chúng ta bắt gặp những âm từ, như: rọng nương, tre pheo, chó má, mương phai… ai cũng cho rằng, đó là tiếng Nghệ thuần túy. Nhưng trong cả 4 trường hợp vừa dẫn, mỗi tổ từ có 2 cấu thành, tiền tố là âm Việt (rọng, tre, chó, mương), còn hậu tố là âm Thái (nương, pheo, má, phai). Không chỉ âm Thái tồn tại trong cùng một tổ từ có âm Việt, mà tiếng Thái nhiều khi tồn tại riêng, như một số địa hạt cộng đồng dân cư này có nguồn gốc từ Việt cổ. Cũng như cộng đồng người Mường, cộng đồng người Thái là người Việt cổ, hình thành cách ngày nay hàng mấy ngàn năm; về sau, có sự chia tách, mà khởi đầu là vào cuối thời Hùng Vương (thế kỷ thứ III tr. CN), một bộ phận người Việt cổ sinh sống ở Mường Lò (nay thuộc vùng Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái), tách ra khỏi nhóm Việt cổ, để hình thành một sắc tộc riêng và được gọi là Thái (cũng viết là Tai hay Tay - Tày), tức nhóm Tày Thái về sau. Người đại diện cho nhóm Tày Thái đó là Tức pắn (tên gọi của viên thủ lĩnh bộ tộc), mà viên Tức pắn lừng danh đó, chính là Thục Phán, người thừa kế Hùng Vương, tiến từ Yên Bái về Cổ Loa (Hà Nội) xây dựng kinh đô của nhà nước Âu Lạc.

Như vậy, chúng ta có thể nói rằng, tiếng Nghệ Tĩnh cho đến nay, không phải là tiếng riêng của dân cư Xứ Nghệ, mà là tiếng nói của cộng đồng người Việt kể từ khi hình thành (từ người Việt cổ). Trong quá trình tiến hóa, Nghệ Tĩnh là vùng đất giữ lại được nhiều nhất những yếu tố của tiếng Việt cổ cho đến tận ngày nay. Cũng vì thế, chúng ta có thể khẳng định, chỉ có tiếng Việt của cộng đồng dân cư Việt khắp mọi miền đất nước, chứ không có tiếng riêng cho một vùng dân cư nào. Những khác biệt trong tiếng nói của từng vùng chỉ dành riêng cho từng vùng đất, chưa đủ yếu tố để cấu thành phương ngữ, mà cũng không làm phương hại đến tiếng phổ thông, như tiếng Nghệ mà chúng ta đang nói đến ở đây, nên được coi như tiếng dân dã của vùng đó. Nhiều vấn đề về tiếng Nghệ cần được làm sáng tỏ hơn, chúng tôi hy vọng sẽ trở lại tiếng Nghệ trong những dịp thuận tiện khác.

Đọc thêm

Du lịch Hà Tĩnh - bước tiến mới về khách lưu trú

Du lịch Hà Tĩnh - bước tiến mới về khách lưu trú

Thời tiết khá tốt, nhiều sản phẩm mới hấp dẫn, giao thông thuận tiện... là những yếu tố quan trọng giúp các khu, điểm du lịch Hà Tĩnh thu hút hơn 734 nghìn lượt khách trong kỳ nghỉ lễ 30/4 và 1/5.
Podcast tản văn: Về Hà Tĩnh nghe biển hát

Podcast tản văn: Về Hà Tĩnh nghe biển hát

Hà Tĩnh được thiên nhiên ban tặng cảnh quan sơn thủy hữu tình với những bãi biển cát mịn, nước trong, nhiều làng chài cổ có tuổi đời hàng ngàn năm. Về Hà Tĩnh, du khách không chỉ được đắm mình trong làn nước biển xanh trong, ngắm cảnh sắc thiên nhiên hùng vĩ mà còn được nghe những huyền tích thú vị.
Podcast giai thoại danh nhân: Bóng dáng người vợ

Podcast giai thoại danh nhân: Bóng dáng người vợ

Danh họa Nguyễn Phan Chánh có mối tình lớn với người vợ đầu tiên, người đã sinh cho ông 6 người con và dâng hiến cả cuộc đời cho gia đình. Dù là vợ của một danh họa nổi tiếng, nhưng bà có một cuộc đời vất vả, lo toan và nhiều hy sinh.
Nhớ về kẻ sĩ Ngàn Hống Võ Hồng Huy

Nhớ về kẻ sĩ Ngàn Hống Võ Hồng Huy

Nhà nghiên cứu văn hoá dân gian Võ Hồng Huy là người có nhiều đóng góp cho kho tàng văn hoá dân gian xứ Nghệ với danh xưng: “kẻ sĩ Ngàn Hống”.
Trương Ngọc Ánh duyên nợ với thơ lục bát

Trương Ngọc Ánh duyên nợ với thơ lục bát

Duyên nợ với thi ca đã giúp thầy giáo dạy Sử sinh ra từ miền quê mặn mòi ven biển Đỉnh Bàn (TP Hà Tĩnh) đến với những vần thơ thấm đẫm phù sa quê hương. Trương Ngọc Ánh làm nhiều thơ, đủ các thể loại nhưng nhiều nhất, đặc sắc nhất vẫn là những bài thơ lục bát.
Dấu ấn 50 năm nền văn học nghệ thuật Hà Tĩnh

Dấu ấn 50 năm nền văn học nghệ thuật Hà Tĩnh

50 năm sau ngày thống nhất đất nước, các thế hệ văn nghệ sỹ Hà Tĩnh đã góp phần xây dựng được một nền VHNT dày dặn. Với hàng ngàn tác phẩm trên các lĩnh vực,  phản ảnh sinh động về sự phát triển kinh tế, văn hoá xã hội của Hà Tĩnh qua các giai đoạn lịch sử.
Ca khúc cách mạng - sức mạnh chiến thắng

Ca khúc cách mạng - sức mạnh chiến thắng

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước kết thúc đã 50 năm nhưng âm hưởng hào hùng của những ngày tháng khói lửa vẫn vẹn nguyên bởi những ca khúc đi cùng năm tháng. Lời ca tiếng hát đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn, hun đúc tâm thế của cả dân tộc cùng ra trận và làm nên chiến thắng 30/4/1975.
Podcast truyện ngắn: Chuyến tàu Thống Nhất

Podcast truyện ngắn: Chuyến tàu Thống Nhất

Hai người bạn già ngồi bên nhau, nhấp từng ngụm trà cảm nhận vị đắng chát tan ra trong khoang miệng. Rồi chỉ còn lại vị ngọt cứ mênh mang nơi cuống họng. Ánh mắt họ hướng về phía lá cờ đỏ sao vàng treo trước cổng nhà đang tung bay trong gió…
Đêm không ngủ tại Thành phố Hồ Chí Minh

Đêm không ngủ tại Thành phố Hồ Chí Minh

Tối 29/4 - rạng sáng 30/4, hàng nghìn người dân tập trung trên các tuyến đường trung tâm TP.HCM để chờ xem Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Màn trình diễn 7 phút của 10.500 drone

Màn trình diễn 7 phút của 10.500 drone

Tối 28/4, 10.500 drone lần lượt thắp sáng bầu trời TP.HCM trong khoảng 7 phút, chào mừng 50 năm thống nhất đất nước với hàng loạt hình ảnh biểu tượng như Bác Hồ, Dinh Độc Lập...
Khai trương mùa du lịch biển Thạch Hải

Khai trương mùa du lịch biển Thạch Hải

Đây là sự kiện khởi động cho mùa du lịch biển sôi động năm 2025, góp phần quảng bá vẻ đẹp nguyên sơ, hấp dẫn của vùng biển Thạch Hải (TP Hà Tĩnh) đến với du khách gần xa.
Podcast truyện ngắn: Trái tim hòa bình

Podcast truyện ngắn: Trái tim hòa bình

Bước đi trong lòng địa đạo, cô thấy tim mình rung lên trong lồng ngực. Còn người cựu chiến binh già, có biết bao hồi ức đẹp ùa về, hồi ức về một thời binh lửa...
Podcast tản văn" Về đâu tháng Tư

Podcast tản văn: Về đâu tháng Tư?

Rồi mùa hạ sẽ bước những bước chân dập dồn mạnh mẽ, cái nắng non nớt run rẩy tháng Tư sẽ thay bằng những trận nắng trập trùng tháng Năm, tháng Sáu...
Những bài ca bất tử…

Những bài ca bất tử…

Chiến tranh đã lùi xa, mảnh đất bom cày đạn xới năm xưa nay đã trở thành những địa chỉ đỏ. Bài ca bất tử về những người đã sống, chiến đấu trên quê hương Hà Tĩnh vẫn còn vang vọng mãi...
Việt Nam ghi dấu ấn mạnh mẽ trên bản đồ du lịch toàn cầu

Việt Nam ghi dấu ấn mạnh mẽ trên bản đồ du lịch toàn cầu

Nền tảng dịch vụ du lịch trực tuyến toàn cầu Trip.com vừa chính thức công bố Bảng xếp hạng Trip.Best toàn cầu năm 2025, vinh danh những điểm lưu trú, nhà hàng và điểm tham quan được yêu thích nhất trên thế giới. Trong đó, Việt Nam gây ấn tượng mạnh với 38 đại diện đến từ 11 tỉnh, thành phố trải dài khắp ba miền, góp mặt ở cả ba hạng mục chính.