Nhớ lại những ngày được tham gia một số cảnh quay trong bộ phim “Đại thi hào Nguyễn Du”, chị Nguyễn Thị Nguyệt - giáo viên Trường Mầm non Kim Song Trường (xã Trường Lưu) chia sẻ: “Dịp ấy, mấy chị em trong CLB Dân ca ví, giặm của xã được đoàn phim mời đóng cảnh cậu Chiêu Bảy (tức Nguyễn Du) đến Trường Lưu hát ví phường vải. Tôi vào vai o Uy, hát đối đáp với người đóng vai Nguyễn Du. Dù chỉ là cảnh phim tái hiện giai thoại, nhưng tôi cảm nhận rõ con người của Đại thi hào - một người con nhà quan lớn mà lại gần gũi, thấu hiểu, thương những cô gái phường vải nghèo như o Uy, o Sạ ngày xưa”.
Câu chuyện chị Nguyệt kể là một trong nhiều giai thoại dân gian về thời kỳ Nguyễn Du sống tại quê nội Tiên Điền - quãng đời đã hun đúc nên chất “người dân dã” trong tâm hồn ông.
Nguyễn Du sinh năm 1765 tại Thăng Long, trong gia đình quan đại thần triều đình nhà Lê. Cha ông là Tể tướng Xuân Quận công Nguyễn Nghiễm. Năm 18 tuổi, ông đỗ thi Hương, ra làm quan võ, rồi gặp biến động thời thế, triều Lê sụp đổ, ông về ẩn cư quê vợ ở Thái Bình. Từ năm 1796-1802, Nguyễn Du trở lại Tiên Điền sinh sống. Đây là quãng thời gian ông gần gũi nhất với người dân quê, sống chan hòa với người bình dân vùng đất Hồng Lam.
Theo nhiều tư liệu và giai thoại dân gian, khi về quê, Nguyễn Du không giữ nếp sống quý tộc mà hòa mình với cuộc sống thôn quê. Ông thường ghé phường nón, phường vải để trò chuyện, hiểu nỗi nhọc nhằn của dân; cùng ngư dân làng chài dong thuyền ra biển; theo phường săn lên núi Hồng Lĩnh, ngao du khắp 99 đỉnh non Hồng.
Bà Trần Thị Vinh - Phó Trưởng ban phụ trách Ban Quản lý Khu di tích Nguyễn Du, người có nhiều năm nghiên cứu về cuộc đời Đại thi hào cho biết: “Trong xã hội phong kiến, hiếm có ai như cụ Nguyễn Du. Dù xuất thân từ tầng lớp thượng lưu, nhưng về sống ở Tiên Điền, cụ lại bình dị đến lạ. Nhiều bậc cao niên họ Nguyễn kể lại, cụ đi đâu cũng áo nâu, nón lá, khi thì đến tận ruộng xem dân gặt lúa, lúc lại theo phường săn lên núi Hồng, sang Trường Lưu hát ví phường vải… Dân quý cụ vì cụ sống như người làng, không hề kiểu cách, quan quyền như bao người cùng tầng lớp”.
Chính sự hòa mình ấy đã cho Nguyễn Du những trải nghiệm sống sâu sắc, để rồi mỗi trang thơ, mỗi câu chữ trong “Truyện Kiều”, “Văn tế thập loại chúng sinh”, “Thác lời trai phường nón” hay “Văn tế sống 2 cô gái Trường Lưu”… đều thấm đẫm hơi thở cuộc đời.
Nhiều học giả khi nghiên cứu tác phẩm của ông đã phát hiện nhiều hình ảnh, địa danh, điển tích trong thơ Nguyễn Du đều gắn với vùng đất Nghi Xuân. Những câu thơ trong Truyện Kiều như: “Buồn trông cửa bể chiều hôm/Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa…” hay “Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia…” được khẳng định là xuất phát từ cảnh thật của quê hương ông. Chỉ có người từng sống chan hòa với đất, với người, từng đi đến và ghi khắc trong tâm từng bờ ruộng, từng lối sông mới có thể diễn tả được tinh tế đến thế.
Hòa nhập với người dân quê không chỉ giúp Nguyễn Du gần gũi phong tục, tập quán mà còn khiến ông thấu cảm sâu sắc nỗi cơ cực của những phận người bé nhỏ trong xã hội phong kiến. Ông không nhìn họ bằng ánh mắt thương hại, mà bằng sự đồng cảm, thấu hiểu, bởi ông từng sống như họ, ăn như họ, chia sẻ buồn vui cùng họ.
Chính vì thế, giá trị nhân đạo trong thơ Nguyễn Du là sự kết tinh từ nhân cách sống. Như nhiều học giả nhận định: Tình thương trong Truyện Kiều và nhiều tác phẩm của ông không chỉ là cảm xúc nghệ thuật, mà là kết tinh nhân cách của Nguyễn Du - một người từng sống, từng ăn, từng chia sẻ với người dân nghèo. Hòa vào cuộc sống của họ, ông không nhìn bằng con mắt thương hại, mà bằng sự thấu hiểu, đồng cảm. Có lẽ, cũng từ tâm thế ấy, Nguyễn Du đã vượt ra khỏi mọi giới hạn của địa vị, giai tầng trong ứng xử với đời.
2 thế kỷ đã qua, bóng dáng người con Tiên Điền giản dị, áo nâu nón lá vẫn như còn đâu đây trong những câu hát ví phường vải, trong áng mây bay qua đỉnh núi Hồng và cả những tiếng sóng dòng Lam. Trong tâm thức người dân quê hương, Nguyễn Du không chỉ là Đại thi hào của dân tộc, mà còn là “người của miền dân dã”, người đã từng sống giữa dân, hiểu dân và để lại cho muôn đời di sản nhân văn vô giá.