Ông Hồ Sỹ Cúc sinh ra trong một gia đình có cha làm thầy thuốc, mẹ buôn bán nhỏ. Tháng 4/1948, ông tình nguyện nhập ngũ, tham gia huấn luyện tại Tiểu đoàn tân binh Hà Tĩnh, rồi được biên chế vào Trung đoàn 18, Đại đoàn 325, chiến đấu tại chiến trường Bình Trị Thiên.

Tại đây, ông được giao nhiệm vụ trong đơn vị pháo binh, trực tiếp tham gia nhiều trận đánh lớn, trong đó có trận Xuân Bồ (Lệ Thủy, Quảng Bình, 1950) - trận đánh tiêu diệt sinh lực địch nhiều nhất (500 tên, trong đó có 2 chỉ huy) trên chiến trường Bình Trị Thiên trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Đầu tháng 5/1953, Trung đoàn 18 của ông Cúc được lệnh hành quân sang Trung Lào. Tại đây, Trung đoàn đã đánh thắng các trận lớn như: Khăm Hẹ, Khăm Ma, Bản Bun... Cuối năm 1953, khi Chiến dịch Điện Biên Phủ đang trong giai đoạn chuẩn bị quyết liệt, ông Cúc cùng một trung đội của Trung đoàn 18 được chỉ thị hành quân cấp tốc chi viện cho Điện Biên Phủ.
Đến Điện Biên, đơn vị ông được giao nhiệm vụ chi viện pháo binh cho bộ binh tổng công kích, đánh vào các cứ điểm C1, A1, 505, 506… Ông Cúc nhớ lại: “Ngày 7/5/1954, trong trận đánh cuối cùng, lúc chúng tôi sẵn sàng nổ pháo thì nhận lệnh ngừng bắn. Tin chiến thắng truyền đến, tướng Đờ Cát-xtơ-ri đã đầu hàng. Cả đơn vị quẳng hết áo lá ngụy trang, ôm nhau nhảy múa, reo hò, nước mắt hòa với nụ cười. Niềm tự hào chiến thắng ấy là phần thưởng vô giá trong đời người lính”.

Sau Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Hồ Sỹ Cúc được biên chế vào Sư đoàn 350. Tháng 9/1954, đơn vị hành quân về Phủ Lý (tỉnh Hà Nam cũ) để chuẩn bị tiếp quản Thủ đô Hà Nội. “Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, đó là niềm mong đợi lớn nhất của cả dân tộc, ngày Thủ đô trở về với Tổ quốc” - ông kể.
Ngày 9/10/1954, quân ta bắt đầu tiếp quản các quận ngoại thành, trong khi quân Pháp rút dần khỏi thành phố. Đến sáng 10/10, những đoàn quân đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam chính thức tiến vào Hà Nội từ các hướng Tây và Nam. Đó là Trung đoàn Thủ đô do Anh hùng Nguyễn Quốc Trị dẫn đầu đi qua Kim Mã, Hàng Bông, Hàng Đào... và các Trung đoàn 88, 36 xuất phát từ khu Việt Nam học xá, tiến qua phố Bạch Mai, phố Huế, vòng quanh hồ Hoàn Kiếm. Đúng 15h chiều 10/10/1954, hàng vạn người dân Thủ đô dự lễ thượng cờ tại Cột cờ Hà Nội.


Sau 9 năm kháng chiến gian khổ của quân và dân ta, lần đầu tiên lá cờ đỏ sao vàng tung bay giữa bầu trời Thủ đô hòa bình. Ông Cúc nhớ lại: “Cả Hà Nội như vỡ òa trong niềm vui chiến thắng. Người dân hai bên đường tươi cười hân hoan mà chan hòa nước mắt của ngày đoàn tụ, họ nắm tay bộ đội reo hò, tặng hoa, bánh kẹo. Ai cũng thấy mình như đang sống trong giấc mơ, giấc mơ độc lập giành lại “trái tim đất nước” đã thành hiện thực sau bao năm không ngừng chiến đấu”.
Sau khi hoàn thành nhiệm vụ tiếp quản Thủ đô, đơn vị ông tiếp tục được điều động xuống Hải Phòng, đảm nhiệm công tác tiếp quản sân bay Cát Bi và một số khu vực trọng điểm. Trong giai đoạn này, ông được phong quân hàm Thiếu úy, rồi Trung úy, tiếp tục cống hiến cho quân đội đến năm 1957. Rời quân ngũ do lý do sức khỏe, ông Hồ Sỹ Cúc chuyển ngành về Ty Thương nghiệp Hà Tĩnh, sau đó công tác tại Phòng TDTT huyện Thạch Hà.

Năm 1965, trong vai trò Đội trưởng Đội dân quân tự vệ UBND huyện Thạch Hà, ông cùng đồng đội đã bắn rơi một máy bay AD6 của Mỹ khi nó bay qua khu vực cầu Cày. Thành tích này giúp đơn vị được Nhà nước tặng Huân chương Chiến công hạng Ba, còn ông nhận bằng khen của UBND tỉnh.
Đến năm 1976, ông nghỉ hưu, song vẫn tiếp tục cống hiến cho địa phương với vai trò Bí thư Chi bộ thôn suốt gần 15 năm. Hơn nửa thế kỷ cống hiến cho cách mạng, ông được Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huy chương Chiến thắng hạng Nhất, Huy chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất…
Năm nay, ở tuổi 95, gần 75 năm tuổi Đảng, ông vẫn minh mẫn, hằng ngày theo dõi thời sự, dự sinh hoạt chi bộ đều đặn và thường xuyên góp ý xây dựng phường Trần Phú đạt chuẩn đô thị văn minh.


Năm 2024, nhân dịp kỷ niệm 70 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ, ông Hồ Sỹ Cúc vinh dự là 1 trong 8 cựu chiến binh của Hà Tĩnh tham dự cuộc gặp mặt tại Hà Nội.

“So với ngày chúng tôi tiếp quản, Hà Nội bây giờ đẹp hơn, rộng lớn, phát triển rực rỡ hơn gấp nhiều lần. Nhưng điều đáng quý nhất là Thủ đô vẫn giữ được hồn cốt văn hóa ngàn năm văn hiến và lòng yêu nước của người dân. Tôi mong rằng, thế hệ sau này luôn ghi nhớ: để có được hôm nay, biết bao thế hệ đã đổ máu, chiến đấu, hy sinh. Trong đó, 9 năm trường kỳ kháng chiến, cùng Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu và ngày Giải phóng Thủ đô là những mốc son không bao giờ được quên lãng” - cựu binh Hồ Sỹ Cúc xúc động, tự hào.