Nguyễn Công Trứ lúc nhỏ tên là Củng, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt hiệu Hy Văn, quê làng Uy Viễn (nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Ông sinh năm Mậu Tuất (1778) ở huyện Quỳnh Côi, tỉnh Thái Bình.
Nguyễn Công Trứ là một thiếu niên anh tuấn, có tài văn chương, lại có ý chí mãnh liệt muốn ra tay “kinh bang tế thế” nhưng công danh đến với ông khá muộn.
Năm Nhâm Tuất (1802), vua Gia Long ra Bắc. Nguyễn Công Trứ đón vua ở Nghệ An dâng bản điều trần “Thái Bình thập sách” nhưng ý kiến của một bạch diện thư sinh không được triều đình chú ý. Năm Đinh Mão (1807), Nguyễn Công Trứ tham gia kỳ thi Hương đầu tiên của nhà Nguyễn nhưng không đậu, đến khoa thi Quý Dậu (1813), ông đi thi cũng chỉ trúng sinh đồ (tú tài). Mãi đến năm 42 tuổi, ông mới giành được Giải nguyên trường Nghệ khoa thi năm Kỷ Mão (1819).
Năm 1820, ông được bổ dụng giữ chức Hành tẩu Quốc Sử quán. Trong 28 năm làm quan, từng giữ 26 chức vụ khác nhau, chức Hành tẩu thấp nhất trong hàng thuộc quan cho đến Binh bộ Thượng thư, lĩnh Tổng đốc Hải An, hàm Chánh nhị phẩm, bước đường hoan lộ của ông cũng chông gai không kém khoa danh. Ba lần ông được cử đi chấm thi hương, có lần làm Chánh chủ khảo trường Hà Nội, bốn lần ông làm tướng cầm quân, một lần làm lính thú và một lần là sứ bộ ngoại giao.
Với quan niệm về “chí nam nhi”,” nợ tang bồng” hay “không có danh thì nát với cỏ cây”, Nguyễn Công Trứ nóng lòng muốn đem tài trí giúp đời. Sau khi dẹp xong cuộc khởi nghĩa của Phan Bá Vành (1827), ông phát hiện ra một chân lý: “Dân làm loạn vì nghèo đói” và biện pháp trừ loạn tận gốc là làm cho dân có ruộng có việc làm ăn để được no ấm yên vui.
Ông đã tự mình lặn lội tìm hiểu vùng Nam Định, Ninh Bình và dâng sớ về triều xin ba việc: Nghiêm trị bọn du thủ du thực gian phi; Trừng trị bọn lại dịch tham nhũng, thái bỏ những kẻ bất lực, khen thưởng những người liêm khiết; Khẩn hoang để dân có ruộng cày, có nghề làm ăn.
Triều đình chỉ nghe ông mỗi việc khai hoang. Vua Minh Mạng cử ông làm Dinh điền sứ, đứng ra chiêu tập lưu dân khai phá đất hoang lập nên hai huyện Tiền Hải, Kim Sơn và hai tổng Hoành Thu và Ninh Nhất. Nhờ đó mà những vùng đất hoang vắng, chua phèn dần trở thành làng xóm đông vui, đồng điền bát ngát với hệ thống kênh mương, đường sá thuận lợi. Chỉ riêng thành quả lớn này cũng đủ chứng minh Nguyễn Công Trứ là một nhân vật kiệt xuất và có đầy đủ phẩm chất của một người sáng tạo lịch sử. Dân Tiền Hải, Kim Sơn lập đền thờ sống ông để tỏ lòng thành kính ân nhân.
Trong cuộc đời hoạt động sôi nổi của mình, Nguyễn Công Trứ thường làm thơ để gửi gắm tâm sự. Ông để lại hơn 150 tác phẩm thi ca độc đáo. Thơ Nguyễn Công Trứ là thơ ký thác, gắn với cuộc đời tác giả với những vui buồn của lòng mình, không tô vẽ mà mộc mạc, nôm na nhưng ý chân thành và cảm xúc sâu sắc, hết sức phóng túng mà lại rất đắm say.
Sinh thời, Nguyễn Công Trứ rất tin vào tài năng của mình, với khát vọng lớn lao: “Đã mang tiếng ở trong trời đất/ Phải có danh gì với núi sông”. Là một ông quan, Nguyễn Công Trứ giữ đúng “thanh, cần, thận, trực”. Là một con người, ông có đủ trung, dũng, nhân, trí, tín. Ông là một phẩm cách cao đẹp, luôn luôn nhập thế, luôn luôn hành động vì cuộc đời, vì con người.
Đối tượng: +) Tạo:HocVan+) Duyệt:Duong+) Giữ:Duong Trạng thái: Phó Tổng biên tập Thời gian: +) Tạo:17/08/2009 09:35+) Sửa:19/08/2009 16:30+) Đăng: