Nguyễn Du và Truyện Kiều - tài sản tinh thần vô giá của dân tộc

(Baohatinh.vn) - Đối với dân tộc Việt Nam, Nguyễn Du (1765 - 1820) là một tác gia lớn, với một sự nghiệp viết không thực đồ sộ nhưng có giá trị kết tinh rất cao.

Nguyễn Du và Truyện Kiều - tài sản tinh thần vô giá của dân tộc

Du khách tham quan độc bản Truyện Kiều trưng bày tại Khu lưu niệm Nguyễn Du. Ảnh: Đậu Hà

Trước hết đó là 3 tập thơ chữ Hán: Thanh Hiên thi tập (78 bài), Nam Trung tạp ngâm (34 bài), Bắc hành tạp lục (131 bài) in đậm bản sắc và bản lĩnh cá nhân của một hồn thơ rất giàu tình thương đời, tình yêu nước và yêu dân. Cùng với thơ chữ Hán là thơ Nôm, với Văn tế thập loại chúng sinh, Thác lời trai phường nón và Sinh tế Trường Lưu nhị nữ…

Nếu chỉ bấy nhiêu thôi, Nguyễn Du cũng đã đủ tư cách một tác gia tiêu biểu, ở hàng đầu của văn chương Việt trung đại như nhiều tên tuổi khác trước và sau ông. Thế nhưng, Nguyễn Du còn là tác giả của Truyện Kiều và đây mới thực là một sự kiện làm thay đổi tầm vóc, khiến cho Nguyễn Du trở thành một đỉnh cao đột xuất của văn chương Việt.

Với tầm vóc đó, rất dễ dàng và nhanh chóng, không chỉ công chúng Việt mà về sau là cả nhân loại nhận ra ngay một tương đồng giữa Nguyễn Du với nhiều danh nhân khác trên thế giới. Có nghĩa là, Truyện Kiều là kết quả một thăng hoa đột xuất của Nguyễn Du, khiến cho chỉ cần nói đến Truyện Kiều là đủ để nói Nguyễn Du - người đã đem lại một giá trị tinh thần rất tươi mới và đặc trưng cho văn chương Việt, ngôn ngữ Việt, bản sắc Việt, hồn Việt…

Truyện Kiều có sức sống bền vững như thế nào thì đã có một lịch sử ngót 200 năm minh chứng với bao nhiêu bộ tuyển, hàng nghìn trang bình và luận do hàng trăm tác giả thành danh viết ra, nếu tính từ bài viết đầu tiên, năm 1820 - năm Nguyễn Du qua đời, của Mộng Liên Đường chủ nhân: “… nếu không có con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”.

Nguyễn Du và Truyện Kiều - tài sản tinh thần vô giá của dân tộc

Trên dưới 35 văn bản dịch Truyện Kiều của hơn 20 ngôn ngữ trên thế giới trong hơn một thế kỷ qua và vẫn đang được tiếp tục - đó là đường biên rộng nhất cho sức lan tỏa của một tác phẩm. Ảnh Internet

200 năm, không lúc nào Nhân dân ta ngừng nghỉ việc đọc Kiều, lẩy Kiều, vịnh Kiều, tập Kiều, xướng họa về Kiều, dựng sân khấu Kiều..., qua đó tạo nên một văn hóa Kiều rất độc đáo trong gương mặt văn chương Việt, văn hóa Việt.

3254 câu Kiều, đó là bộ bách khoa thư của đời sống Việt trong hơn 200 năm qua. 3254 câu, câu nào cũng có thể in sâu vào bộ nhớ con người, để cho những bà mẹ không biết chữ có thể thuộc lòng hàng trăm câu, hoặc đọc ngược từng đoạn mà vận vào mọi tình huống sống của đời mình; để cùng với ca dao, dân ca khắp các vùng miền mà tạo nên hồn cốt Việt, tâm linh Việt, bản sắc Việt, bản lĩnh Việt…

Như vậy, nói Nguyễn Du, qua Truyện Kiều là nói một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc và rộng lớn gắn với một tư duy nghệ thuật vượt tầm thời đại. Nhưng như vậy vẫn là chưa đủ để nói về đóng góp của Nguyễn Du và giá trị của kiệt tác Truyện Kiều.

Truyện Kiều có sức sống vượt thời gian, bởi đó là sự kết nối và đưa tới đỉnh cao tuyệt vời vẻ đẹp và sức sống của ngôn ngữ Việt, của tiếng Việt. Một tiếng Việt đến từ các truyền thuyết giữ nước và dựng nước của cha ông từ chiều sâu bốn nghìn năm lịch sử, nhờ đó mà lưu giữ được cho muôn đời sau truyện con Rồng cháu Tiên, Thánh Gióng, Sơn Tinh - Thủy Tinh, các vua Hùng, nó là biểu trưng và kết tinh cho sự chống chọi với âm mưu xâm lược và đồng hóa của phương Bắc trong hàng nghìn năm.

Nguyễn Du và Truyện Kiều - tài sản tinh thần vô giá của dân tộc

1 bức thuộc bộ tranh Kiều trong đồ án tốt nghiệp Khoa Thiết kế đồ họa - Trường Đại học Mỹ thuật công nghiệp Hà Nội của nữ hoạ sỹ Phạm Đức Hạnh (SN 1997, xã Phú Lộc, huyện Can Lộc).

Một tiếng Việt trong 254 bài của Quốc âm thi tập, có giá trị không thua Bình Ngô đại cáo của cùng một danh nhân Nguyễn Trãi, thế kỷ XV. Một tiếng Việt rất bác học và rất dân gian, rất cổ điển và rất hiện đại trong 3254 câu thơ Kiều, xứng danh là “thiên thu tuyệt diệu từ” (Phan Thạch Sơ), là một khúc “Nam âm tuyệt xướng” (Đào Nguyên Phổ);

3254 câu với 22.778 chữ gần như tất cả cứ mới mẻ, cứ nguyên vẹn, cứ tinh khôi như thế mà có ở khắp cửa miệng mọi người dân Việt suốt hơn 200 năm qua; mà in sâu vào bộ nhớ của bất cứ ai sinh ra trên dải đất mang hình chữ S này.

Một tiếng Việt của Truyện Kiều, của Nguyễn Du là một tiếng Việt dành cho muôn người, cho mọi nhà. Một tiếng Việt có nguồn cội từ nhiều nghìn năm, trong đó ở đỉnh cao, luôn cập được các bến bờ thời sự, đó là tiếng Việt của Nguyễn Du, được kết tinh trong Truyện Kiều, để, với Truyện Kiều, nói như học giả Phạm Quỳnh: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn. Tiếng ta còn, nước ta còn”.

Hoặc nhà thơ Chế Lan Viên: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn”. Để thấy Truyện Kiều là truyện cho muôn người, cho mọi nhà và cho mọi thời. Rất hiện đại, rất đương thời mà vẫn trong khuôn hình cổ điển. Rất cổ điển mà vẫn có sức vượt thời gian để đến với thời hiện đại, với con người hiện nay, người bây giờ.

Đó là một Nguyễn Du vĩnh cửu cho người đọc, không chỉ ở thời điểm 1965 hoặc 2015 - nhân kỷ niệm 200 năm và 250 năm ngày sinh Nguyễn Du, hoặc 2020 - kỷ niệm 255 năm ngày sinh, tưởng niệm 200 năm ngày mất của Đại thi hào. Cũng không phải 300 năm sắp tới như câu hỏi “bất tri tam bách…” của Nguyễn Du, mà là nghìn năm - “Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du”, như khẳng định của Tố Hữu.

Nguyễn Du và Truyện Kiều - tài sản tinh thần vô giá của dân tộc

Hình tượng các nhân vật Truyện Kiều trên sân khấu múa trong vở diễn “Bale Kiều”. Ảnh Intrernet

Năm 2020 là thời điểm, là cơ hội cho tất cả chúng ta - những công dân Việt tiếp tục mở rộng và đi sâu vào các giá trị tinh thần gần như vô tận mà Nguyễn Du và Truyện Kiều đã để lại. Đó sẽ là các công trình khoa học nhằm tiếp tục phát hiện các giá trị mới ở Nguyễn Du trong tương ứng với thời đại và trên các cách tiếp cận mới của các giới học giả hàng đầu của dân tộc.

Là sự mở rộng các phương thức quảng bá giá trị Truyện Kiều trên tất cả các loại hình nghệ thuật truyền thống và hiện đại như: âm nhạc, hội họa, sân khấu, múa, múa rối, ba lê, điện ảnh, truyền thanh, truyền hình…

Là các phương thức đưa Truyện Kiều và Nguyễn Du vào tất cả các bậc học của nền giáo dục phổ thông và đại học bằng những bài giảng, những cuộc thi, những giải thưởng; bên cạnh sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần cho những tấm gương trẻ em hiếu học trên mọi miền đất nước.

Rộng ra, vào bất cứ lúc nào, việc khai thác và phổ cập các tri thức đầy đủ, mới mẻ gắn với niềm tự hào về những gì liên quan đến Nguyễn Du như là một tài sản tinh thần vô giá của dân tộc.

Chủ đề Danh nhân Hà Tĩnh

Đọc thêm

Tiên Điền hôm nay...

Tiên Điền hôm nay...

Tựa vào núi Hồng, soi bóng dòng Lam, Tiên Điền (Hà Tĩnh) hôm nay mang dáng hình rộng mở, năng động.
Hoàng giáp Vũ Diệm - Người con núi Hồng làm rạng danh quê hương

Hoàng giáp Vũ Diệm - Người con núi Hồng làm rạng danh quê hương

Ít ai biết rằng, câu thành ngữ nổi tiếng một thời ở kinh đô Thăng Long “Bút Cấm Chỉ, sĩ Thiên Lộc” nói về vùng đất hiếu học ở Hà Tĩnh là xuất phát từ người học trò có tên Vũ Diệm, quê ở làng Thổ Vượng, sau này thi đỗ Hoàng giáp, giúp nước, giúp dân.
Không ngừng “làm dày” di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều

Không ngừng “làm dày” di sản Nguyễn Du và Truyện Kiều

Cùng với công tác bảo tồn, BQL Khu di tích Nguyễn Du (xã Tiên Điền, Hà Tĩnh) đã nỗ lực sưu tầm nhiều tư liệu, hiện vật, khảo cứu và xuất bản nhiều ấn phẩm liên quan về Đại thi hào Nguyễn Du, dòng họ Nguyễn Tiên Điền, Truyện Kiều..., qua đó, làm dày thêm và lan tỏa di sản Nguyễn Du.
Người thợ cốp pha lan tỏa lối sống đẹp

Người thợ cốp pha lan tỏa lối sống đẹp

Không danh lợi, không ồn ào, chỉ lặng lẽ cứu người, giúp đời bằng cả tấm lòng - đó là cách anh Đậu Văn Mân (Đội trưởng đội cứu hộ, cứu nạn 0 đồng SOS Mân Côi Hà Tĩnh) đang sống và hành động suốt những năm qua.
"Vì người nghèo" - Hành trình của yêu thương!

"Vì người nghèo" - Hành trình của yêu thương!

Những ngôi nhà được dựng lại sau bão, những mô hình sinh kế được trao cho người dân đã tạo nên dòng chảy yêu thương lan tỏa, thể hiện trách nhiệm, tinh thần đoàn kết trong mục tiêu phát triển bền vững ở Hà Tĩnh, không để ai bị bỏ lại phía sau.
"Cây sáng kiến" ở Vườn quốc gia Vũ Quang

"Cây sáng kiến" ở Vườn quốc gia Vũ Quang

Hơn 12 năm công tác tại Vườn Quốc gia Vũ Quang (Hà Tĩnh), anh Lê Thanh Toán đã trở thành tấm gương tiêu biểu về tinh thần trách nhiệm, lòng tận tụy và sự sáng tạo trong công tác quản lý, bảo vệ rừng và bảo tồn đa dạng sinh học.
Những bông hoa đẹp trong phong trào thi đua yêu nước

Những bông hoa đẹp trong phong trào thi đua yêu nước

Không chỉ giỏi việc nước, đảm việc nhà, nhiều phụ nữ Hà Tĩnh đã và đang tỏa sáng trong các phong trào thi đua yêu nước, trở thành những bông hoa đẹp, góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống của phụ nữ Việt Nam.
Vì sao người Hà Tĩnh ưu tiên làm nhà kiên cố, mua xe?

Vì sao người Hà Tĩnh ưu tiên làm nhà kiên cố, mua xe?

Nếu người ở những tỉnh có mưa thuận gió hòa từng sống, trải qua những ngày tháng tại Hà Tĩnh như tháng 10 này, sẽ thấu hiểu vì sao người quê tôi dồn tiền bạc, chắt bóp để làm nhà kiên cố, mua xe...
Còn mãi ký ức Ngày Giải phóng Thủ đô

Còn mãi ký ức Ngày Giải phóng Thủ đô

Đã 71 năm trôi qua, song với cựu chiến binh Hồ Sỹ Cúc (95 tuổi, TDP Liên Công, phường Trần Phú, Hà Tĩnh), ký ức hào hùng về ngày cùng đồng đội tiến qua 5 cửa ô về tiếp quản Thủ đô (10/10/1954) vẫn vẹn nguyên niềm tự hào.
Cái duyên với Truyện Kiều

Cái duyên với Truyện Kiều

Truyện Kiều với chủ nghĩa nhân văn cao cả, nghệ thuật đặc sắc đã đến với nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới, thực sự mang nhiều giá trị xuyên thời đại. Trong niềm hãnh diện chung đó, những người con Hà Tĩnh nói chung và những người con xa quê nói riêng luôn tự hào, ngưỡng mộ Đại thi hào Nguyễn Du và nỗ lực lan tỏa Truyện Kiều với bè bạn gần xa.
Sức mạnh nội sinh trên chặng đường mới

Sức mạnh nội sinh trên chặng đường mới

Con người Hà Tĩnh, với những giá trị đặc trưng không ngừng được củng cố, hun đúc, phát triển qua các thời kỳ chính là sức mạnh nội sinh để xây dựng và phát triển quê hương.
Gia đình 4 thế hệ giữ trọn truyền thống hiếu nghĩa

Gia đình 4 thế hệ giữ trọn truyền thống hiếu nghĩa

Gia đình cụ bà Trần Thị Lực ở xã Thạch Lạc (Hà Tĩnh) hiện có 4 thế hệ cùng chung sống gắn kết và yêu thương. Trong mái ấm ấy, truyền thống hiếu nghĩa luôn được gìn giữ và trao truyền từ đời này sang đời khác.