Bài 1: Tăng trưởng mạnh, cạnh tranh yếu!

Nâng cao giá trị sản phẩm sau thu hoạch là yếu tố quyết định đến việc hình thành nền nông nghiệp toàn diện. Song, chúng ta chưa xây dựng được quy trình sản xuất khép kín, trong đó vấn đề bảo quản, chế biến và tiêu thụ chưa được chú trọng nên giá trị các sản phẩm nông nghiệp ở tỉnh ta chưa tương xứng với sự tăng trưởng của các chỉ số: năng suất và sản lượng.

Chế biến sau thu hoạch, nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp

Giá trị chưa tương xứng

Cùng với sự phát triển của tỉnh nhà, thời gian qua, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp đã có sự phát triển khá toàn diện, hướng dần đến nền nông nghiệp hàng hóa, hiện đại. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản năm 2012 theo giá cố định (1994) đạt 3.085 tỷ đồng, tăng 12,5% so với năm 2008. Cơ cấu mùa vụ có sự chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực; giống mới có năng suất cao, chất lượng tốt được đưa vào sản xuất diện rộng, góp phần tăng năng suất, sản lượng và tăng giá trị thu nhập trên đơn vị diện tích canh tác.

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh kiểm tra Nhà máy Chế biến gạo ở Đức Lâm (Đức Thọ).
Các đồng chí lãnh đạo tỉnh kiểm tra Nhà máy Chế biến gạo ở Đức Lâm (Đức Thọ).

Năm 2012, tổng sản lượng lương thực đạt 50,5 vạn tấn, tăng 1,6 vạn tấn so với năm 2008. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng năm 2012 đạt 70.200 tấn, tăng 31%; tỷ trọng giá trị sản xuất chăn nuôi trong nông nghiệp đạt 42%, tăng 9,4% so với năm 2008. Mức tăng trưởng của các chỉ số trong sản xuất nông nghiệp thời gian qua đã phản ánh được những nỗ lực của bà con nông dân trong việc ứng dụng các thành tựu KH&CN, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, mùa vụ và khẳng định tính hiệu quả của các chủ trương, chính sách hỗ trợ sản xuất của tỉnh.

Mặc dù sản xuất nông nghiệp của tỉnh ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng theo đánh giá của các nhà chuyên môn, giá trị kinh tế từ nông nghiệp mang lại vẫn chưa tương xứng với sự đầu tư. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do hạn chế trong việc bảo quản sau thu hoạch, ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm và làm giảm hiệu quả sản xuất. Tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch, đặc biệt là vào mùa mưa lũ còn lớn, chiếm từ 13-15% sản lượng ở lúa, 20-25% các mặt hàng thủy sản.... Khâu chế biến, bảo quản ở tỉnh ta hiện nay còn mang tính truyền thống, quy mô nhỏ, chủ yếu chế biến thô, chế biến tinh chưa nhiều nên giá trị sản phẩm chưa cao, sức cạnh tranh hàng hóa thấp, chưa xây dựng được thương hiệu mạnh mang tên Hà Tĩnh.

Chính sách hỗ trợ chưa đồng bộ

Nhận thức được tầm quan trọng của khâu bảo quản, chế biến sau thu hoạch, các chính sách hỗ trợ người dân giảm tổn thất sau thu hoạch đã được ban hành. Song, vì nhiều lý do khác nhau nên việc tiếp cận các chính sách ưu đãi, hỗ trợ của người dân gặp không ít khó khăn. Theo ông Bùi Phong An - Trưởng phòng Quản lý khoa học (Sở KH&CN), các đề án liên quan đến sản xuất, bảo quản, chế biến sản phẩm sau thu hoạch đã được tỉnh ban hành thời gian qua vẫn chưa tập trung cho các giải pháp công nghệ và công tác tiêu thụ sản phẩm. Mặt khác, các chính sách chưa đủ mạnh, nhất là về đất đai, vốn đầu tư và khoa học công nghệ; lại phân tán ở nhiều đề án nên người sản xuất rất khó nắm bắt và khai thác.

Tôm là một trong ít sản phẩm được chế biến sâu trước khi đưa ra thị trường.
Tôm là một trong ít sản phẩm được chế biến sâu trước khi đưa ra thị trường.

Đồng quan điểm trên, Phó Chủ tịch UBND xã Cẩm Quan (Cẩm Xuyên), ông Chu Văn Dinh cho rằng, các chính sách hỗ trợ của Nhà nước có thể phát huy hiệu quả ở địa phương này, nhưng khi áp dụng vào điều kiện cụ thể của địa phương khác, nếu không có sự điều chỉnh chưa chắc đã phát huy tác dụng. Đơn cử, chính sách tín dụng ưu đãi theo Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg và Quyết định số 65/2011/QĐ-TTg, quy định nông dân phải mua các loại máy móc có giá trị nội địa hóa từ 60% trở lên, trong khi máy móc nội địa phụ tùng không đạt chuẩn, khó sửa chữa, tiêu hao nhiều nhiên liệu, thường gặp sự cố khi sử dụng. Máy móc thiết bị phải mua của các tổ chức, cá nhân theo danh sách do Bộ NN&PTNT công bố, trong khi các đơn vị này lại tập trung chủ yếu ở khu vực Tây Nam bộ và miền Bắc nên khả năng tiếp cận của nông dân hạn chế.

Cũng do sự đơn lẻ, thiếu liên kết nên các chính sách hỗ trợ nông dân ứng dụng KHKT giảm tổn thất sau thu hoạch chưa phát huy hiệu quả như mục tiêu đặt ra. Ví dụ như Quyết định số 63 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ lãi suất nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thủy sản, đã giúp nông dân trang bị hàng ngàn máy móc nông nghiệp. Tuy nhiên, các loại máy này hầu hết được sử dụng để giảm sức lao động chứ chưa phát huy tác dụng trong quá trình chế biến, bảo quản để nâng cao giá trị sản phẩm nông nghiệp.

Ngoài ra, theo tìm hiểu của chúng tôi, hiện nay mức hỗ trợ về KH&CN qua các chính sách được ban hành còn thiếu, yếu, chưa đủ mạnh để áp dụng. Đặc biệt, việc hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao, đổi mới công nghệ trong bảo quản, chế biến, tiêu thụ sản phẩm chưa rõ ràng, còn thiếu và nhiều bất cập. Chính sách hỗ trợ chuyển giao công nghệ trong chế biến tinh, chế biến sâu sản phẩm còn vắng bóng; ứng dụng công nghệ cao trong bảo quản, chế biến chưa có... phần nào hạn chế giá trị kinh tế của các sản phẩm sau thu hoạch và chưa khuyến khích được việc hình thành chuỗi sản xuất khép kín.

(Còn nữa...)

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Podcast