Quê nhà tôi ơi...!

(Baohatinh.vn) - Tôi thường xốn xang mỗi khi nhắc đến quê nhà. Mẹ đang lúi húi thổi cơm, bên nhà hàng xóm, khói bếp cũng vừa lan tỏa trên mái rạ.

Tôi còn nhớ, trong mảnh vườn xưa do tiên tổ để lại, cha mẹ có trồng mấy loại rau xanh, trong đó có bù rợ (phía Bắc gọi là bí đỏ), bù gáo (loại này các vùng miền gọi bằng nhiều tên nhưng phổ thông nhất là hồ lô).

Quê nhà tôi ơi...!

Bù rợ (phía Bắc gọi là bí đỏ). Ảnh internet.

Bù rợ trong làng giờ chẳng ai trồng. Quê đã lên thị trấn, vườn xưa các gia đình phần thì chia con cháu, phần thì chia lô bán nền. Bù rợ ngoài chợ không thiếu, do nông dân các xã cận kề đưa nông sản về chợ thị trấn bán. Bù gáo thì thật là hiếm.

Hình như cách gọi bù gáo cũng rất đặc biệt, rặt phong vị Xứ Nghệ, nhất là Hà Tĩnh. Vào “google” gõ cụm từ “bù gáo” là không có. Bù gáo ngoài vỏ màu xanh hoặc lẫn trắng. Điều khác biệt là quả bù gáo có hai phần. Phần trên, bắt đầu từ cuống đến đoạn thắt eo giữa quả nhỏ hơn, phần từ thắt eo đến rốn quả phình to ra.

Vì sao gọi là bù gáo? Khi tôi lớn lên đã thấy quả bù khô được các gia đình dùng làm gáo múc nước. Cạnh mép sân đất ngày xưa nhà nào cũng có một bể nước, gọi là bể cạn đựng nước ăn, gánh về từ giếng làng. Bên cạnh có một cái cọc, thường làm bằng cành của cây tre, trên đó có úp chiếc gáo. Thời khó khăn, chỉ có gáo bằng quả bù, hoặc bằng dừa.

Quê nhà tôi ơi...!

Quả bù gáo có hai phần. Phần trên, bắt đầu từ cuống đến đoạn thắt eo giữa quả nhỏ hơn, phần từ thắt eo đến rốn quả phình to ra. Ảnh internet.

Thường qua mùa bù, giàn bù nhà ai cũng có vài quả để già làm giống, sau khi lấy hạt thì quả bù khô được phơi nắng, phơi sương, treo lên gác bếp cho thật khô, thật nỏ, làm thêm cái cán bằng tre là được cái gáo xinh xinh. Với loại bù gáo phần trên quả dài thẳng tuột thì khỏi cần xỏ thêm cán tre. Chắc vì có công dụng làm gáo mà thành tên.

Quả bù gáo, tất nhiên chỉ ăn xanh, khác bù rợ, ăn xanh hoặc quả chín làm thực phẩm dự trữ. Quả non được luộc lên chấm mắm cáy (tên khác là ruốc cáy). Ruốc cáy, ruốc rạm, ruốc rươi, đó là những đặc sản Xứ Nghệ. Mùa hè, đi làm đồng về, mâm cơm có đĩa bù gáo luộc chấm với mắm cáy, thêm bát canh bù gáo nấu với tép đồng thì tuyệt vời. Râu tôm nấu với ruột bầu/ Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon” (ca dao).

Bầu/bù trong câu ca dao ngàn đời nay, chính là bù gáo. Câu ca dao nói lên nghĩa thủy chung vợ chồng, đã yêu nhau thì dù cảnh nghèo, bữa ăn chỉ có râu tôm nấu với ruột bầu là hai thứ đáng ra vứt đi thì vẫn ngon. Thực tế, quả bù gáo non luộc lên ăn từ ngoài vào trong, không bỏ đi tí tẹo nào. Khác cơ bản với bí xanh, phần ruột và hạt phải bỏ đi.

Quê nhà tôi ơi...!

Mùa hè, đi làm đồng về, mâm cơm có đĩa bù gáo luộc chấm với mắm cáy, thêm bát canh bù gáo nấu với tép đồng thì tuyệt vời. Ảnh internet.

Không giống như quả bù rợ, nhà nông trồng có thể cho leo hoặc cây tự bò giữa đất vườn, đất đồi vẫn ra quả, bù gáo là loại phải làm giàn. Đều là cây dây leo, nhưng bù gáo có “tính nữ” đòi hỏi phải chăm sóc, chiều chuộng. Tôi còn nhớ, cha tôi làm giàn ngay trên lối đi, tức là ngõ vào nhà. Ra tết, cha tra hạt, sau tết, ngày nông nhàn, cha đẵn tre làm cột trụ hai bên hành lang ngõ; phía trên chẻ tre, cho các ngọn tre phủ lên làm giàn.

Cứ thế bù gáo mọc mầm, lớn dậy và leo lên. Đến đầu hè thì bù đã mọc nhanh cả giàn. Giàn bù còn có tác dụng tránh nắng. Bù rợ, bù gáo đều có hoa màu vàng. Khi kết trái, quả thõng xuống giàn. Nhiều năm, bù gáo được mùa, quả chi chít. Mỗi vụ, cha tôi lại để giống vài quả, chọn những quả đẹp để già lấy hạt cho mùa sau...

Quê nhà tôi ơi...!

Tháng tư vừa rồi, nhân chuyến công tác Tây Nguyên, tôi có vào thăm tư gia nhà thơ gốc Hà Tĩnh Đặng Bá Tiến. Bước vào sân nhà, tôi thấy những miếng bù gáo được phu nhân nhà thơ thái ra phơi trên nong nhỏ (Xứ Nghệ gọi loại nông cụ này là mẹt). Thấy tôi ngơ ngác nhìn, nhà thơ Đặng Bá Tiến bảo: “Vợ tôi vẫn mua về phơi khô lên, xào tép đấy”.

Ôi văn hóa ẩm thực rặt Nghệ, rặt quê. Ngoài nấu canh, luộc, xào tép, người nông dân Xứ Nghệ còn thái bù gáo ra phơi phô, treo bên cạnh gác bếp làm thức ăn cho bữa cơm mùa đông. Ấy là những năm bù gáo được mùa. Ấy là thời tự cung, tự cấp, trồng để dùng trong gia đình, cho hàng xóm, ít ai nghĩ đến trồng mang ra chợ bán.

Bù gáo phơi khô, đến mùa đông được mẹ tôi mang ra, mỗi hôm dùng một ít. Mẹ bốc một nắm cho vào nước ngâm. Phần để rửa rạch bồ hóng, phần để cho miếng bù khô quắt kia nở ra. Mùa tháng mười như quê tôi, ven sông nước lợ, có đầm khi mưa xuống cơ man nào tôm rảo. Cũng không hẳn là tôm đất, không hẳn là tôm bạc, giống tôm rảo thân vừa tròn, vừa bẹt. Bù gáo sau khi nở ra, mẹ rửa sạch, xào với tép tươi, tôm rảo thì ôi chao thần tiên.

Bây giờ thi thoảng tôi bắt gặp bù gáo trên đường phố Hà Nội. Hóa ra quả bù gáo khô được chế tác thành đồ mỹ nghệ. Không biết họ mang từ đâu đến. Có loại quả to, quả bé. Quả bé kết thành chùm, có thắt nơ xanh đỏ ở phần eo. Lạ mắt, mua về treo trong nhà, trang trí ở các phòng khách, lối cầu thang lên xuống. Đó chính là quả hồ lô khô mà người Hà Tĩnh gọi là bù gáo. Nghe đâu, hồ lô có đến 12 tác dụng về phong thủy cơ đấy. Thảo nào xa xưa cha tôi hay trồng trước ngõ.

Tôi thường xốn xang mỗi khi nhắc đến quê nhà. Nhắc đến quả bù gáo, trước mắt tôi là cảnh gia đình. Mẹ đang lúi húi thổi cơm, bên nhà hàng xóm, khói bếp cũng vừa lan tỏa trên mái rạ. Cái bụng tôi, nghe mùi thơm của cơm gạo mới, mùi bù gáo mẹ xào bốc lên, đã bắt đầu “biểu tình”.

Nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh có hai câu thơ về làng: “Ngày xưa tôi sống trong làng/ Bây giờ làng sống trong tôi”. Nhiều khi chỉ là bắt gặp người bán rong quả bù gáo khô trên đường phố mà quê nhà sống dậy, xốn xang.

Đọc thêm

Diễn xướng “Duyên tình biển mặn”

Diễn xướng “Duyên tình biển mặn”

Tiết mục: Diễn xướng “Duyên tình biển mặn” (soạn lời và chỉnh lý: Văn Mạnh, Sỹ Chinh) do Đoàn nghệ thuật Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh Hà Tĩnh biểu diễn tại Liên hoan Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh tại Hà Tĩnh.
Chợ phiên - nét văn hóa truyền thống

Chợ phiên - nét văn hóa truyền thống

Tháng Chạp về, khi đào, mai bắt đầu ươm nụ trên những làng quê Hà Tĩnh, lòng tôi lại háo hức chờ đợi những buổi chợ phiên truyền thống, để được hòa mình trong không gian văn hóa quê hương.
Tỏa sáng di sản y học cổ truyền Hải Thượng Lãn Ông

Tỏa sáng di sản y học cổ truyền Hải Thượng Lãn Ông

Kế thừa, phát huy giá trị di sản y học cổ truyền của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, các bệnh viện, Hội Đông y Hà Tĩnh và cả nước ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động, khẳng định vai trò trong công tác chữa bệnh cứu người.
“Tấm căn cước” quý giá

“Tấm căn cước” quý giá

Nơi ấy, trên bản đồ hình chữ S của nước Việt ngàn năm là dải đất nhỏ hẹp, “đòn gánh gánh hai đầu đất nước”. Nơi ấy, bên dòng sông Lam trong xanh và núi Hồng sừng sững, những cư dân nhiều đời đã làm nên bao huyền thoại, tạo dựng một vùng văn hóa giàu bản sắc: văn hóa Hồng Lam. Đó là “tấm căn cước” quý giá, riêng có của Hà Tĩnh.
Dấu ấn cố hương trong “Thượng Kinh ký sự”

Dấu ấn cố hương trong “Thượng Kinh ký sự”

Tác phẩm “Thượng kinh ký sự” của Đại danh y Lê Hữu Trác bên cạnh trường đoạn nói về nỗi nhớ nơi ẩn cư ở quê mẹ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) là trường đoạn nói về nỗi nhớ cố hương da diết với rất nhiều hoài niệm.
Noel ấm áp, an lành

Noel ấm áp, an lành

Những ngày này, nhiều làng quê Hà Tĩnh lại rộn ràng không khí chờ đón lễ Noel. Dẫu không phải người xứ đạo nhưng tôi đã thấy mùa Giáng sinh ấm áp đang lan tỏa trong mình.
“Hành giả” Stêphannô Nguyễn Khắc Dương

“Hành giả” Stêphannô Nguyễn Khắc Dương

Trong cộng đồng Thiên Chúa giáo Việt Nam hiện nay, Stêphannô Nguyễn Khắc Dương, quê ở xã An Hòa Thịnh (Hương Sơn, Hà Tĩnh) là một tu sĩ được rất nhiều giám mục, linh mục, chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo biết đến và rất kính trọng.
Đoàn kết lương giáo - tô điểm quê hương

Đoàn kết lương giáo - tô điểm quê hương

Với tinh thần “Sống tốt đời, đẹp đạo”, đồng bào công giáo Hà Tĩnh đã tích cực gắn kết lương giáo, chung sức xây dựng, điểm tô cho bức tranh quê hương ngày càng giàu đẹp, văn minh.
Thành Sen - thành phố bên bờ biển

Thành Sen - thành phố bên bờ biển

Một chiều như mọi chiều, tôi lại chạy xe chầm chậm trên những con phố cổ xưa của Thành Sen để ngắm nhìn những sắc màu mới đan xen màu ký ức. Xuôi về phía biển, một cảm giác vừa lạ lẫm, vừa hân hoan dào lên trong tôi - thành phố Hà Tĩnh đã mở rộng về bốn phía, làm dậy lên bao xúc cảm.