Tôi may mắn là người thuộc quyền hơn 20 năm của anh, nhà báo - nguyên Tổng Biên tập Báo Hà Tĩnh Lê Hữu Quý, người cựu binh đã từng trải qua cuộc chiến khốc liệt với vết thương hằn trên gương mặt và nụ cười đôn hậu như tính cách, con người của anh.
Dẫu nhiều lần được nghe anh kể về vùng đất phương Nam có Long An, Tháp Mười, nơi anh đã trải qua những trận chiến sinh tử nhưng khi đọc cuốn tự truyện “Nợ ân tình”, tôi mới thật sự tường tận về những năm tháng chiến đấu gian khổ, những giờ phút đối mặt với cái chết của anh và đồng đội trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tôi cũng hiểu rõ hơn những năm tháng làm báo sôi nổi của anh cùng đồng nghiệp trên mảnh đất Lam Hồng.
Cuốn hồi ký có 5 phần rất rõ: Tuổi thơ vất vả; 5 năm đời quân ngũ; 9 năm học ở Hà Nội; 30 năm làm báo; Những năm tháng còn lại.
Những dòng chữ như thước phim quay chậm hiện ra trước mắt: Thị xã “phố làng” những năm 1960 nghèo đói, một gia đình đông con, bố mẹ và các con làm nông vất vả. Nhưng đó là một gia đình yêu nước, có tinh thần cách mạng, sẵn sàng động viên các con lên đường đi đánh giặc, ngày tháng khắc khoải chờ mong tin con. Hình ảnh chàng thiếu niên theo cha đi làm ruộng, chàng thanh niên Lê Hữu Quý cần cù lao động, xông pha cứu người và tài sản sau những trận bom Mỹ, sẵn sàng gác bút nghiên lên đường, cùng đồng đội quyết tâm “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”… khiến ai đọc cũng liên tưởng đến một thế hệ thanh niên Việt Nam tràn đầy khát vọng, hoài bão cứu nước, không quản ngại gian khổ hy sinh.
Mỗi vùng đất anh từng đi qua, từ Bắc vào Nam, sang Campuchia, vòng lên Tháp Mười, Long An, nơi diễn ra những cuộc chiến ác liệt giữa ta và địch, những phút giây giữa lằn ranh sinh tử, những ngày bị thương vẫn phải tránh càn, những ngày tháng về an dưỡng ở Campuchia rồi qua Lào để trở về Việt Nam v.v… được anh kể lại khá chi tiết, tỉ mỉ, nhất là tên người, tên đất, những gương mặt đồng đội cùng chiến đấu, hy sinh… giúp ta hình dung một Lê Hữu Quý dũng cảm chiến đấu, hết lòng thương yêu đồng đội và mang nặng ân tình với Nhân dân đã cưu mang, che chở các anh. Qua những câu chuyện của anh cũng thấy rõ quân đội ta tuy thiếu thốn nhiều thứ nhưng luôn tràn đầy tinh thần chiến đấu, lạc quan cách mạng, dũng cảm kiên cường, có tính kỷ luật cao, đùm bọc thương yêu nhau, quân với dân là tình cá nước. Đúng như Tố Hữu viết: “Ta hiểu vì sao ta chiến đấu/ Ta hiểu vì ai ta hiến máu”.
Đọc cuốn hồi ký của anh, ta hiểu hơn về tình hình đất nước, tỉnh Nghệ Tĩnh, Hà Tĩnh những năm sau khi nước nhà thống nhất. Dù đói khổ, thiếu thốn trăm bề, Đảng và dân vẫn chung tay hàn gắn vết thương chiến tranh, bước vào công cuộc xây dựng CNXH và đổi mới đất nước. Trong khó khăn, chàng sinh viên Lê Hữu Quý dù đã lập gia đình vẫn học xong 2 bằng đại học: đại học tổng hợp và đại học báo chí. Những năm trên giảng đường đại học, người cựu binh, người đảng viên vẫn luôn mẫu mực, đầu tàu. Trở về quê nhà Nghệ Tĩnh công tác, rồi tách tỉnh trở về Hà Tĩnh, anh đã cùng tập thể cán bộ, phóng viên Báo Nghệ Tĩnh, Báo Hà Tĩnh xây dựng tờ báo tỉnh Đảng bộ ngày càng phát triển, trở thành tiếng nói tin cậy của Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân 2 tỉnh Nghệ - Tĩnh.
“Vui gì hơn làm người lính đi đầu/ Trong đêm tối tim ta làm ngọn lửa”, người lính năm xưa từng vào sinh ra tử, nay cùng đội ngũ những người làm báo trở thành người chiến sĩ trên mặt trận báo chí, phản ánh trung thực công cuộc đổi mới diễn ra từng ngày trên mảnh đất Lam Hồng, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tôn vinh truyền thống văn hóa, cách mạng của quê hương, cổ vũ động viên các tầng lớp nhân dân đóng góp sức mình xây dựng quê hương. Qua tự truyện của anh, người đọc cũng có thể hiểu được từng giai đoạn đi lên của tờ báo tỉnh nhà, nhiều gian khó và cũng rất đỗi vinh quang. Những nhà báo trẻ hôm nay có thể từ đó rút ra cho mình nhiều bài học bổ ích trong nghề.
Nhưng có lẽ, lắng đọng nhất, gây xúc động, lay thức lòng người nhất trong tự truyện là những trang anh viết về đồng đội của mình, về những người dân đã che chở, cưu mang anh nơi đóng quân, nơi chiến trận giao tranh ác liệt hằng ngày. Những đồng đội bị thương, hy sinh được anh kể lại tỉ mỉ, chi tiết, rõ ràng, đầy đủ cho thấy dù bao nhiêu mùa cây thay lá, đông qua xuân tới, anh vẫn không nguôi nhớ thương đồng đội, vẫn nặng ân tình với Nhân dân.
Hình ảnh hai má con ở vùng địch chiếm đóng mang ra vườn bát cháo thịt chuột giúp anh cầm hơi lúc đói lả, cô đơn cùng cực, vết thương chưa lành phải chạy càn khắc sâu vào tâm trí anh ân nghĩa chưa đáp đền được vì khi trở lại không tìm được má. Những chuyến đi tìm mộ bạn, những cuộc trùng phùng ở nhiều miền quê mà anh có dịp đi công tác và mới đây nhất, chuyến thăm Côn Đảo vào tháng 8/2023, trở về Long An - Tháp Mười của anh, cuộc hội ngộ với nữ giao liên Bé Ba làm tôi rơi nước mắt vì xúc động.
Đúng như anh viết: “Những tình cảm thiêng liêng cao quý đó không cân đong đo đếm được, không bút mực nào tả nổi!”; “43 năm công tác, tôi đã có mặt ở 63 tỉnh, thành,… 6 lần trở lại Kinh Bắc, 5 lần trở lại vùng Đồng Tháp, 3 lần trở lại Lào, 1 lần trở lại Campuchia và nhiều lần đến thăm các gia đình liệt sĩ bạn tôi. Là người làm báo nên đi đến đâu, ngoài việc thu thập tài liệu viết bài, tôi tìm cách gặp gỡ tri ân những người đã cưu mang giúp đỡ bản thân trong quá trình học tập, chiến đấu, công tác”. Dẫu hiện nay anh đã có cuộc sống đủ đầy sung túc trong một gia đình êm ấm, hạnh phúc nhưng niềm thương, nỗi nhớ đồng đội vẫn không hề nguôi ngoai. Đó cũng chính là lý do anh đặt tên cuốn tự truyện là “Nợ ân tình”.
“Nợ ân tình” là món nợ của một trái tim nhân hậu, đầy yêu thương với cuộc đời, con người. Món nợ lớn ấy không làm ai nặng gánh thêm, mệt mỏi thêm. Trái lại, qua mỗi lần đọc, chúng ta càng hiểu hơn về đất nước Việt Nam một thời đạn lửa, gian lao khó nhọc nhưng anh hùng, vinh quang. Chúng ta càng thấy phải sống có trách nhiệm hơn với đất nước, quê hương, với xã hội, càng mong muốn thể hiện sự tri ân những lớp người đi trước đã cống hiến xương máu, tuổi trẻ, sức lực cho đất nước tự do, độc lập, càng trân quý hơn cuộc sống hòa bình hạnh phúc mà mình đang có.