Trên bản đồ quê hương, 137 km bờ biển Hà Tĩnh chỉ là một nét vẽ khô cứng, thậm chí còn ít mềm mại hơn nét vẽ miền biên ải. Ấy thế mà, từ nơi đó, không biết bao nhiêu giá trị văn hóa, kinh tế đã được khai sinh, kiến tạo. Có lẽ, mỗi một doi cát cố nhoài ra biển, mỗi một con nước dùng dằng đi ở nơi cửa sông, mỗi một con sóng nhấp nhô gối đầu vào đất mẹ… đều đã lắng sâu vào trong đó những vỉa tầng văn hóa, lịch sử của quê hương; để hôm nay, dù ở nơi nào trên dằng dặc biển cả ấy, thế hệ trẻ chúng tôi cũng đều cảm nhận được những giá trị bất biến, trường tồn, đều cảm nhận được quê hương rộng lớn thật gần gũi, thật thân quen…
Ảnh: Hương Thành
Suốt hàng trăm, hàng nghìn năm qua, trong những hành trình di cư của ông cha, biển vẫn là một trong những nơi được lựa chọn làm điểm neo mình, tụ cư đông đúc. Cũng giống như những vùng miền khác trên cả nước, những di chỉ khảo cổ phát hiện được ở Hà Tĩnh đều cho thấy, biển là nơi cung cấp nguồn sống chủ yếu cho các cộng đồng người tiền sử cư trú ven biển. Từ trong mối quan hệ cộng sinh ấy, ngoài đặc trưng chiếm hữu, khai thác, cư dân miền biển đã sáng tạo ra nhiều nghề phụ như làm muối, làm mắm…, góp phần tạo nên những nét đặc trưng trong ẩm thực của người Việt.
Khu du lịch biển Thiên Cầm (Cẩm Xuyên). Ảnh: Nguyễn Thanh Hải
Biển Thạch Hải - Vẻ đẹp hoang sơ. Nguồn video: Sở TT&TT Hà Tĩnh
Ngày nay, hoà mình vào nhịp sống mới, cư dân các vùng biển Hà Tĩnh đã biết cởi bỏ chiếc áo truyền thống mà vươn tới những giá trị mới. Và, trên những bước đi chập chững ấy, ngư dân Hà Tĩnh đã xây dựng được những thương hiệu của quê hương, tìm cách đưa sản phẩm vươn ra thị trường rộng lớn.
Biển cả từ xa xưa vốn là nơi diễn ra nhiều cuộc chiến tranh nhưng cũng từ phía biển, khi neo mình vào biển, người Việt đã sớm biết tận dụng, phát triển giao thương buôn bán. Xa xưa, Hà Tĩnh có những thương cảng nổi tiếng như Đan Nhai, Hội Thống…, ngày nay là cảng nước sâu Vũng Áng, Sơn Dương, Xuân Hải với những hoạt động giao thương sôi nổi. Đây chính là cơ sở để Hà Tĩnh đẩy mạnh hợp tác phát triển kinh tế với các vùng khác và các quốc gia khác. Đặc biệt, khu liên hợp cảng Vũng Áng – Sơn Dương đã và đang là cửa ngõ phát triển kinh tế biển của vùng Bắc Trung Bộ, là lợi thế để Hà Tĩnh mở ra những cơ hội phát triển kinh tế mới.
Ảnh: Nguyễn Thanh Hải
Vượt lên những mối quan hệ cộng sinh truyền thống, ngày nay, Hà Tĩnh đã biết khai thác tiềm năng du lịch từ biển. Hiếm có nơi nào lại có nhiều đến thế những bãi biển thoải dài với biển xanh, cát trắng, nắng vàng như ở Hà Tĩnh. Hơn nữa, phong cảnh ấy lại gắn với một đời sống văn hoá tâm linh độc đáo nên càng hấp dẫn du khách. Hiện nay, với những chính sách ưu đãi, thu hút đầu tư của tỉnh, nhiều dự án du lịch biển đã được khởi động, xây dựng. Từ khai thác thô, Hà Tĩnh đang hướng đến khai thác sâu, xây dựng những khu du lịch hiện đại như: Xuân Thành (Nghi Xuân), Thiên Cầm (Cẩm Xuyên), Cửa Sót (Lộc Hà)… Và, trong hành trình khai thác tiềm năng du lịch ấy, các cư dân ven biển cũng biết tự chuyển mình, thích ứng hài hoà để tạo nên những giá trị mới trong mối quan hệ cộng sinh giữa con người và biển cả.
Không nhớ đã bao lần, trong ban mai tinh khiết, khi những hàng dương còn say ngủ, tôi đã lặng lẽ chạy xe ra biển, lặng yên ngắm nhìn biển cả. Tôi cứ ngồi yên như thế cho đến khi những thanh âm cuộc sống của biển lay động mọi giác quan. Văn hoá biển cứ thế, từ từ thẩm thấu vào tôi. Tôi yêu biển. Chân thành. Mộc mạc. Bền chặt. Tình yêu ấy được nuôi dưỡng bởi rì rầm sóng biển, bởi mặn mòi mắm muối. Bởi tiếng lao xao mua bán lúc thuyền về. Bởi những gương mặt ngư dân vừa rắn rỏi vừa mênh mang… Tình yêu ấy cũng được nuôi dưỡng bởi những thấm nhận về những đặc trưng văn hoá biển cả từ những ngôi làng ven chân sóng.
Lễ hội vùng biển. Ảnh: Công Việt - Hương Thành
Trên những vùng cửa biển cổ, trong nhịp sống đời thường, tôi vẫn như nghe thấy từ muôn lớp sóng không khí sầm uất của những thương cảng cổ Đan Nhai, Hội Thống. Vẫn còn đầy xúc cảm khi nghe những huyền tích về Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu nơi Cửa Khẩu, về Chiêu Trưng Đại Vương Lê Khôi ở vùng Cửa Sót. Vẫn dâng lên trong lồng ngực cảm xúc thiêng liêng khi nhắc đến những vị thần biển cả như Cá Ông, Tam Lang… Và cũng đầy hân hoan khi chứng kiến những hội hè, đình đám đặc sắc của cư dân ven biển.
Những lễ hội truyền thống như lễ cầu ngư, lễ hội nghinh ông, hội chèo cạn, hội đua thuyền, lễ hội đóng đáy… Rõ hơn là lễ hội đền Chiêu Trưng (Lộc Hà – Thạch Hà), lễ hội đền Chế thắng phu nhân (TX Kỳ Anh), lễ hội đền thánh mẫu Liễu Hạnh (Nghi Xuân)… đều xuất phát từ nhu cầu tâm linh và cộng cảm của cư dân miền biển. Trong những dịp tế lễ tiền nhân, họ đều gác lại mái chèo, xếp cất lại lưới, neo tàu thuyền lên bờ, trang trọng sửa soạn để cúng tế tạ ơn...
Di sản phi vật thể quốc gia - Lễ hội Chiêu Trưng Đại vương Lê Khôi. Ảnh: Huy Tùng
Lễ hội miền biển không màu mè, không khoa trương mà lại rất vui tươi và xúc động. Những ngư dân vạm vỡ, quen ăn sóng nói gió bỗng trở nên bé nhỏ trong những nghi lễ thiêng liêng. Những gương mặt rắn rỏi bỗng trở nên dịu hiền trong những trò chơi dân gian miền biển. Dù chẳng ai nói với tôi điều gì to tát về trách nhiệm, về tình yêu với biển, với văn hoá quê hương, nhưng cái cách họ lặng lẽ hoà mình vào lễ hội ấy đã cho tôi biết rằng, không ai khác ngoài những ngư dân là người gìn giữ bản sắc văn hoá vùng biển quê hương. Và họ cũng chính là những người đang âm thầm bảo vệ, gìn giữ lãnh hải của Tổ quốc một cách kiên cường nhất, mãnh liệt nhất.
Bình minh trên biển. Ảnh: Nguyễn Thanh Hải
Thật khó có thể quên những buổi sáng tinh sương, khi mặt trời chưa lên, chen mình giữa xấp xoi mua bán bên những làng biển để lắng nghe từ trong lao xao ấy những lắng sâu, bền bỉ. Thật khó có thể quên những hoàng hôn ngắm mặt trời rơi trên mêng mang biển cả và lắng vào hồn mình những giá trị văn hoá mà cha ông bao đời đã kiến tạo, giữ gìn. Biển cả dẫu lắm phong ba, bão táp nhưng bao đời nay, ai đã lựa chọn đều neo mình vào biển không rời…
Ảnh: PV - CTV
Thiết kế: Huy Tùng