Ở Đại thi hào Nguyễn Du, người ta tìm thấy vẻ đẹp của văn chương đích thực, thổn thức và trăn trở hàng trăm năm vẫn chưa dứt, chưa hết, vẫn nối dài mạch nghĩ về chữ, về thơ và những câu hỏi rốt ráo trong kiếp hồng trần. Cũng bởi nỗi thao thức không nguôi ấy về đời sống, về con người mà niềm riêng “Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng?” đã được thấu hiểu hàng trăm năm qua.
Tấm lòng thương xót con người của Nguyễn Du, nhất là trong Truyện Kiều không chỉ thấu tận trời xanh mà còn giao hòa rộng rãi với vô vàn tấm lòng trong thiên hạ, bất kể thời đại nào. Năm 1965, nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, học giả Pháp Budaren từng viết: Nguyễn Du kể câu chuyện về Thúy Kiều thống thiết đến nỗi người ta quên mất thân phận kỹ nữ của nàng.
Thậm chí, tuyệt bút của ông đã đạt đến mức, Kiều 2 lần ở chốn lầu xanh nhưng người ta vẫn gọi Kiều là “tiên”: “Lạy vua Từ Hải, lạy vãi Giác Duyên, lạy tiên Thúy Kiều”. Văn chương nhân thế, tài xuất chúng đến vậy là cùng.
Nghĩ đến đây, lại nghĩ đến sức mạnh của văn chương. Văn chương là gì, nếu chẳng phải đó là ngôn ngữ và tình ý. Xét trong 2 khía cạnh (tương đối) ấy, sẽ không ai có thể vượt qua Nguyễn Du - một kỳ tài hiếm gặp trong lịch sử văn chương thế giới. Cần nhớ rằng, Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng thơ, một hình thức truyện thơ, có nghĩa là kể câu chuyện bằng thơ. Chính vì thế, thơ trong Truyện Kiều trước hết là tạo nên cốt truyện. Nhưng, vượt xa logic tuyến tính của cốt truyện, thơ trong Truyện Kiều là những vẻ đẹp lấp lánh, nhiều vỉa tầng của ngôn ngữ, văn hóa dân tộc và trên hết là vẻ đẹp của lòng nhân ái, của những cảm xúc hỉ, nộ, ái, ố trong chính mỗi con người.
Nhờ ngôn ngữ tuyệt vời ấy mà trải qua hàng trăm năm, Truyện Kiều vẫn không thôi làm thao thức bao tao nhân mặc khách, bao nghệ sĩ trên nhiều lĩnh vực và bấy nhiêu tầng lớp bình dân, cùng đó là phái sinh nhiều hình thức diễn xướng nghệ thuật. Chính nhờ ngôn ngữ ấy mà có vẻ như, người đời không còn bận tâm quá chi tiết vào cốt truyện của Truyện Kiều mà đi vào nhấn nhá từng câu tùy vào bối cảnh. Sự lấp lánh ấy đã đưa câu Kiều thoát ly bối cảnh của thế kỷ Nguyễn Du, đi đến gặp gỡ với thế kỷ nay và còn nhiều thế kỷ sau nữa. Cũng có nghĩa, câu chuyện của cô Vương Thúy Kiều sẽ còn lay động không biết đến khi nào, dù bối cảnh của cô gái tuyệt sắc giai nhân là bối cảnh của thời kỳ phong kiến.
Truyện Kiều (bản Tiên Điền) có độ dày 260 trang, khổ sách 55x75cm.
Có lẽ, chẳng ai có thể “tổng hợp” được nỗi đau về thân phận con người thời phong kiến mà nhiều hình tướng, nhiều dạng thức như Nguyễn Du để từ đó trở thành tiếng kêu đứt ruột mới (“Đoạn trường tân thanh”). Cô Kiều có tất cả nỗi khổ đau từ: bán mình chuộc cha, bị đánh đập, bị đẩy vào nhà chứa, đi tu (trong tình huống bị bắt buộc, không phải phát nguyện), bị lừa tình, bị phản bội, bị sỉ nhục bởi ghen tuông, bị gài bẫy để phạm tội giết chồng… Tất cả, Nguyễn Du muốn khái quát một thân phận dưới chế độ phong kiến, một con người dưới đáy xã hội ấy. Nhưng, nếu chỉ vậy, Nguyễn Du không thể được “đọc” mãi, giải mã cho đến tận bây giờ.
Phải chăng, vì tình thương bao la, nhìn thấu nỗi khổ của thân phận con người, mà tiếng kêu thương của ông đã vượt thể kỷ, đi đến các phạm trù chung của nỗi đau con người. Thì chẳng phải, thời nào con người cũng trong võng lưới của khổ đau, có chăng chỉ khác về thời đại, hình tướng. Cũng bởi vì cảm quan triết lý ấy mà Nguyễn Du đã đưa minh triết Phật giáo vào Truyện Kiều một cách tự nhiên, như một giải pháp hóa giải, tuy chưa phải là thấu triệt bởi chính ông còn bị ràng buộc bởi tính trật tự trong ý thức Nho gia.
Việc thực hiện các hoạt động gần gũi với lứa tuổi gen Z sẽ giúp các em thêm yêu, thêm hiểu về Truyện Kiều.
Thương xót nàng Kiều, tố cáo xã hội xưa, nhưng lòng nhân đạo của Nguyễn Du đã không để cô Kiều ngập chìm trong vũng lầy của tăm tối. 15 năm lưu lạc với vô vàn nỗi tủi nhục trần gian, nhưng bằng lòng nhân đạo sâu sắc, cô Kiều dưới ngòi bút Nguyễn Du luôn vượt thoát lên tất cả, thậm chí càng trong vũng lầy tăm tối, Kiều càng sáng ngời vẻ đẹp từ hình thức đến đức hạnh, tài năng. Sự kết hợp của vẻ đẹp viên mãn ấy đã làm xiêu lòng bao đấng nam nhi, quân tử, ngay cả Hồ Tôn Hiến dù “mặt sắt” nhưng “cũng ngây vì tình”. Họ say vì sắc, quý vì tài, trọng vì nhân…
Truyện Kiều được diễn xướng dưới nhiều hình thức.
Từ một nhân vật trong tiểu thuyết chương hồi Trung Quốc, Nguyễn Du đã Việt Nam hóa cô Kiều bằng tất cả sự hội tụ tinh túy nhất của dân tộc.
Tác phẩm viết dưới hình thức truyện Nôm - một thể loại văn học thuần túy dân tộc, có nguồn gốc sâu xa từ truyện thơ dân gian đã được bác học hóa. Cùng đó, thể thơ mà Nguyễn Du lựa chọn là lục bát, cũng là một thể thơ thuần túy dân tộc. Quả không sai rằng, với Truyện Kiều, Nguyễn Du đã góp phần phục hưng những giá trị văn hóa, văn học mang tính bản địa của dân tộc và phát triển đến đỉnh cao, đóng góp đến muôn sau. Sự vĩ đại của Nguyễn Du là đã đỉnh cao hóa những chắt lọc, để mỗi câu thơ là quốc hồn, quốc túy, đến mức nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh phải thốt lên: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”.