Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

(Baohatinh.vn) - Tháng 2 âm lịch hàng năm, người dân Hà Tĩnh và đông đảo du khách thập phương lại tìm về với Đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu để dâng hương, tế lễ, tưởng nhớ ngày mất của bậc “Nữ trung hào kiệt”.

Video: Cảnh sắc Đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Đền thờ Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu tọa lạc tại xã Kỳ Ninh, thị xã Kỳ Anh, cách quốc lộ 1 8km về phía Đông. Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ XIV trên một cồn cát cao và rộng.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Trải qua thời gian cùng với sự biến thiên của lịch sử, ngôi đền vẫn giữ được vẻ cổ kính, linh thiêng và trở thành địa chỉ du lịch tâm linh của du khách. Năm 1991, đền thờ được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận: Di tích lịch sử và Danh lam thắng cảnh cấp Quốc gia.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Khu vực điện thờ chính của đền bao gồm ba tòa: thượng điện, trung điện và hạ điện.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Bên trong điện được trang trí công phu, cầu kỳ.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Không gian đền mang nét cổ xưa...

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Dấu tích thời gian đã phủ dày lên ngôi “đền thiêng nơi cửa biển”...

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Vào 11-12/2 (âm lịch) hàng năm, người dân Hà Tĩnh cũng như đông đảo du khách thập phương lại tìm về với Đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu để dâng hương, tế lễ, tưởng nhớ ngày mất của bậc “Nữ trung hào kiệt”; cầu bình an cho bản thân và gia đình.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Các hoạt động chính của lễ giỗ lần thứ 646 Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu bao gồm: dâng hoa, dâng hương tại di tích đền Eo Bạch ngày 1/3; dâng hoa, dâng hương tại đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu ngày 2/3; các nghi lễ truyền thống: hầu văn, yết gà, tế lợn, thụ lộc diễn ra vào tối ngày 2/3. Bên cạnh đó là các hoạt động văn hóa, văn nghệ như giải bóng chuyền nữ, chương trình văn nghệ, thể thao...

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Dịp này, cầu, bến thả hoa đăng cũng sẽ được khánh thành và tổ chức thả hoa đăng tưởng niệm ngày mất Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Lễ giỗ nhằm tưởng nhớ, tôn vinh công đức của Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu đối với dân tộc, quê hương. Đồng thời là dịp để giới thiệu, quảng bá rộng rãi hình ảnh của di tích, góp phần bảo tồn, phát huy giá trị truyền thống văn hoá, phát triển tiềm năng du lịch trên địa bàn thị xã Kỳ Anh.

Ngắm đền thờ Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu trước thềm lễ giỗ 646 năm

Chủ tịch UBND xã Kỳ Ninh Hoàng Trung Thông cho biết: Mỗi năm đền đón khoảng trên 80.000 lượt khách về dâng hương tưởng niệm và vãn cảnh. Đây là điều kiện thuận lợi để thị xã nói chung, xã Kỳ Ninh nói riêng đẩy mạnh phát triển du lịch tâm linh, du lịch biển..”.

Theo sử sách, Chế thắng Phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu (? - 1377) tên thật là Nguyễn Cơ, tự Bích Châu, quê ở xã Bảo Lộc (Hải Hậu, Nam Định). Bà là con gái của vị đại thần họ Nguyễn rất mực thanh liêm và bà Phạm phu nhân. Từ nhỏ cho đến khi trưởng thành, bà Bích Châu được cha mẹ dạy dỗ chu đáo về văn chương, đạo lý và võ thuật, cung kiếm. Khi lớn lên xinh đẹp, thông minh, bà được vua Trần Duệ Tông tuyển vào cung, sau này phong làm quý phi và rất được nhà vua sủng ái.

Là người thông tuệ, lại luôn lo lắng cho sự an nguy xã tắc, trong bối cảnh đất nước còn nhiều rối ren, chính sự chưa yên, lòng dân bất ổn, bà Bích Châu đã dâng vua Trần Duệ Tông (1336 – 1377) bản “Kê minh thập sách” gồm 10 điều trị nước an dân, đến nay vẫn còn giá trị.

Năm 1377, biên giới phía Nam Đại Việt bị giặc quấy rối, vua Trần Duệ Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành, bà xin đi theo để hộ giá. Trên đường chinh phạt, do bị trúng kế của quân địch, các viên tướng của nhà vua lần lượt tử trận, khi đó bà Bích Châu đã thân chinh đứng ra chỉ huy đạo quân bảo vệ nhà vua. Không may bà bị trúng mũi tên tẩm độc, vết thương quá nặng, bà trút hơi thở vào giờ Tý, ngày 11/2/1377 (Đinh Tỵ).

Linh cữu Quý phi Bích Châu được đưa về Thăng Long theo đường biển. Tuy nhiên, đến cửa biển xã Kỳ Ninh (TX Kỳ Anh) ngày nay thì gặp mưa to gió lớn, không thể đi tiếp được, vua Trần Phế Đế (người kế vị vua Trần Duệ Tông vừa mất) liền xuống chiếu cho quan quân an táng linh cữu của bà tại đây và lập miếu để Nhân dân thờ phụng, hương khói.

Năm 1470, vua Lê Thánh Tông đi đánh giặc Chiêm Thành, đến cửa biển Kỳ Ninh phát hiện ngôi miếu, biết được câu chuyện đánh giặc của bà Bích Châu, đã đề tặng bốn chữ “Nữ trung hào kiệt” dán lên bài vị và làm lễ cầu mong hương linh quý phi trợ sức. Sau khi thắng trận trở về, vua Lê Thánh Tông hạ chiếu lập đền, cấp ruộng tế và người trông coi, sắc phong cho bà là Chế Thắng. Kể từ đó, đền được gọi là Chế thắng phu nhân Nguyễn Thị Bích Châu.

Chủ đề Điểm du lịch Hà Tĩnh

Đọc thêm

Xuân về cùng mùa hoa

Xuân về cùng mùa hoa

Khi thời gian dần dịch chuyển về những ngày cuối cùng của năm cũ cũng là lúc người trồng hoa, chăm bón cây cảnh ở Hà Tĩnh tất bật chuẩn bị cho một mùa xuân mới.
Thú chơi hoa ngày Tết

Thú chơi hoa ngày Tết

Chơi hoa, cây cảnh ngày Tết đối với người Việt, trong đó có người Hà Tĩnh không chỉ là nét văn hóa tao nhã mà còn mang ước muốn hướng tới những giá trị tốt đẹp trong cuộc sống.
Chùa Hương Tích sẵn sàng mùa lễ hội

Chùa Hương Tích sẵn sàng mùa lễ hội

Thực hiện mục tiêu thu hút hơn 14 vạn lượt du khách trong năm 2025, các đơn vị quản lý, kinh doanh tại chùa Hương Tích (Hà Tĩnh) đang tập trung nguồn lực chuẩn bị cho mùa lễ hội.
Diễn xướng “Duyên tình biển mặn”

Diễn xướng “Duyên tình biển mặn”

Tiết mục: Diễn xướng “Duyên tình biển mặn” (soạn lời và chỉnh lý: Văn Mạnh, Sỹ Chinh) do Đoàn nghệ thuật Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh Hà Tĩnh biểu diễn tại Liên hoan Di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh tại Hà Tĩnh.
Chợ phiên - nét văn hóa truyền thống

Chợ phiên - nét văn hóa truyền thống

Tháng Chạp về, khi đào, mai bắt đầu ươm nụ trên những làng quê Hà Tĩnh, lòng tôi lại háo hức chờ đợi những buổi chợ phiên truyền thống, để được hòa mình trong không gian văn hóa quê hương.
Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh: Lời mẹ hát

Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh: Lời mẹ hát

Tiết mục Dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh: Lời mẹ hát. Soạn lời: NSND Nguyễn An Ninh. Biểu diễn: Nghệ nhân Văn Sang - Đoàn nghệ thuật Trung tâm Văn hóa-Điện ảnh tỉnh Hà Tĩnh.
Tiết mục ca trù: Làm cho tỏ mặt nam nhi

Tiết mục ca trù: Làm cho tỏ mặt nam nhi

Tiết mục ca trù: Làm cho tỏ mặt nam nhi. Thơ: Nguyễn Công Trứ. Đoàn nghệ thuật Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh tỉnh Hà Tĩnh biểu diễn tại Liên hoan di sản văn hóa phi vật thể được UNESCO vinh danh tại Hà Tĩnh.
Tỏa sáng di sản y học cổ truyền Hải Thượng Lãn Ông

Tỏa sáng di sản y học cổ truyền Hải Thượng Lãn Ông

Kế thừa, phát huy giá trị di sản y học cổ truyền của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác, các bệnh viện, Hội Đông y Hà Tĩnh và cả nước ngày càng nâng cao hiệu quả hoạt động, khẳng định vai trò trong công tác chữa bệnh cứu người.
“Tấm căn cước” quý giá

“Tấm căn cước” quý giá

Nơi ấy, trên bản đồ hình chữ S của nước Việt ngàn năm là dải đất nhỏ hẹp, “đòn gánh gánh hai đầu đất nước”. Nơi ấy, bên dòng sông Lam trong xanh và núi Hồng sừng sững, những cư dân nhiều đời đã làm nên bao huyền thoại, tạo dựng một vùng văn hóa giàu bản sắc: văn hóa Hồng Lam. Đó là “tấm căn cước” quý giá, riêng có của Hà Tĩnh.
Dấu ấn cố hương trong “Thượng Kinh ký sự”

Dấu ấn cố hương trong “Thượng Kinh ký sự”

Tác phẩm “Thượng kinh ký sự” của Đại danh y Lê Hữu Trác bên cạnh trường đoạn nói về nỗi nhớ nơi ẩn cư ở quê mẹ ở Hương Sơn (Hà Tĩnh) là trường đoạn nói về nỗi nhớ cố hương da diết với rất nhiều hoài niệm.
Cuộc “gặp gỡ” giữa Albert Sallet và Lê Hữu Trác

Cuộc “gặp gỡ” giữa Albert Sallet và Lê Hữu Trác

Cuộc “gặp gỡ” giữa Albert Sallet và Lê Hữu Trác là sự kết nối của Đông và Tây, của các phương pháp cổ truyền và khoa học tiến bộ, của cây cỏ và máy móc, là sự tương đồng và tấm lòng của những bậc lương y, là niềm say mê và trách nhiệm đối với khoa học của những nhà bác học.