Không phải ngẫu nhiên mà giữa muôn vàn tác phẩm văn học, Truyện Kiều lại có một chỗ đứng đặc biệt đến thế trong tâm hồn người Việt. Từ lời ru thuở nằm nôi, đến câu lẩy Kiều trong đối đáp hằng ngày, từ điệu ngâm ngân nga nơi phố thị cho đến tiếng Kiều vọng lại bên triền sông La, bên nương bãi Tiên Điền, Nguyễn Du và tác phẩm để đời của ông như đã hóa thành một mạch nguồn văn hóa chảy xuyên suốt 3 miền đất nước.
Thưở ấu thơ, tôi từng nghe bà nội đọc Kiều, lẩy Kiều, hát ru Kiều. Bà không biết chữ nhưng thuộc hàng trăm câu thơ, ngâm nga say sưa mỗi khi làm việc hoặc liên hệ một câu trong Truyện Kiều khi dạy cháu một điều gì đó. Lời bà khi ấy đâu chỉ là thơ mà là đạo lý, là kinh nghiệm làm người được chắt lọc qua bao thế hệ. Cứ thế, tôi lớn lên cùng nhịp điệu Kiều, như thể tiếng Kiều đã hòa vào hơi thở quê nhà, vào từng mùa lúa, mùa trăng, vào từng bước chân tôi ra đồng, ra sông, vào từng ước mơ nhỏ khi tôi đến trường v.v…
Có lẽ ở Hà Tĩnh, dường như ai cũng có trong mình một ký ức như thế. Người thuộc ít, người thuộc nhiều, nhưng đều coi Truyện Kiều như hơi thở của quê hương. Từ những lời ru của mẹ, điệu ví, câu hò, đến các hội thi lẩy Kiều, ngâm Kiều ở Nghi Xuân (cũ)… tất cả khiến tác phẩm của Nguyễn Du không còn chỉ là tác phẩm văn chương, mà đã trở thành một phần đời sống, một phần tâm hồn.
Đâu chỉ ở Hà Tĩnh, Truyện Kiều và những giá trị có trong đó đã được người dân Việt Nam đón nhận, yêu thích, phát triển và bảo tồn. Từ Bắc vào Nam, Truyện Kiều hiện diện trong nhiều dạng thức khác nhau của hình thức diễn xướng dân gian trò Kiều: ở miền Bắc có hát ru Kiều, bói Kiều; miền Trung có ngâm Kiều, ví Kiều, xẩm Kiều; miền Nam lại có hát bội, cải lương Kiều. Ở đâu có người Việt, ở đó có Kiều. Không chỉ là tác phẩm văn học, Truyện Kiều đã trở thành “ngôn ngữ văn hóa”, nơi con người gửi gắm tâm tư, triết lý sống và nhân sinh quan.
Có lẽ vì thế mà Truyện Kiều luôn là mạch nguồn thôi thúc bao thế hệ nghệ sĩ, học giả tìm tòi và sáng tạo. Trong số đó, câu chuyện của diễn viên – nhà sản xuất Mai Thu Huyền là một minh chứng đẹp. Vốn yêu truyện Kiều từ nhỏ và luôn ấp ủ ý định làm phim về Kiều. Và năm 2018, trong một lần ghé thăm Di tích Nguyễn Du, biết được năm 2020 sẽ kỷ niệm 255 năm ngày sinh của cụ, chị đã quyết định đầu tư sản xuất phim điện ảnh Kiều, với mong muốn chuyển tải tinh thần nhân văn và chiều sâu của Truyện Kiều đến khán giả đương đại.
Phim Kiều sau đó không kịp ra mắt như dự định và khi ra mắt không quá nổi tiếng do ảnh hưởng dịch Covid-19 nhưng rõ ràng đó là một minh chứng cho việc truyện Kiều là nguồn cảm hứng bất tận cho các thế hệ nghệ sỹ.
Sự lan toả của truyện Kiều và ý thức bảo tồn, phát huy các giá trị của di sản đó trong tâm thức người Việt còn được khẳng định trong những việc làm ý nghĩa của những người con xa quê. Câu chuyện người con Hà Tĩnh - nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Thị Sông Hương (ở Pháp) - miệt mài với hành trình âm thầm: sưu tầm và hệ thống hàng chục bản dịch Truyện Kiều ở khắp thế giới lại để lại nỗi xúc động sâu sắc.
Xuất thân từ làng Thạch Đài (cũ), nay là phường Hà Huy Tập, tuổi thơ của chị được ru trong câu Kiều của mẹ, của bà. Mang ký ức ấy theo hành trang du học, chị tìm đến các thư viện, viện ngôn ngữ, kho lưu trữ châu Âu, lần theo dấu vết những bản dịch hiếm, có bản đã xuất hiện hơn một thế kỷ để sưu tầm, khảo cứu các tài liệu để chứng minh sự lan toả của truyện Kiều.
Giữa Paris, chị từng mở một triển lãm nhỏ về các bản dịch Truyện Kiều bằng hơn 20 thứ tiếng. Những trang sách cũ, ngả màu thời gian, lại kể câu chuyện mới: về hành trình của Nguyễn Du từ làng Tiên Điền đến thế giới. Với chị, đó không chỉ là công việc nghiên cứu, mà là một cách để kéo Kiều trở trở lại với nhân loại - để Kiều không còn là câu chuyện riêng của người Việt, mà là câu chuyện về nhân tính, về sự cảm thông giữa con người với con người.
Qua thời gian, Kiều đã vượt ra khỏi khuôn khổ văn chương để trở thành một biểu tượng văn hóa dân tộc. Trong các lễ hội ở Nghi Xuân (cũ), người dân vẫn ngâm Kiều, hát Kiều, thi lẩy Kiều như một cách tri ân tiền nhân. Nhiều trường học đưa các hình thức diễn xướng về Kiều vào tiết học trải nghiệm; những người trẻ lại tìm thấy ở Kiều những thông điệp về nhân bản, về sự bao dung, về niềm tin vào cái thiện.
Tại các hội thảo về Nguyễn Du, nhiều nhà nghiên cứu đồng tình với quan điểm: “Người Việt có thể quên tên tác giả của nhiều tác phẩm nhưng không thể quên Nguyễn Du. Vì trong tâm thức, Nguyễn Du là người nói hộ nỗi lòng của dân tộc mình”.
Từ những người nông dân bên bờ sông Lam, đến các nhà nghiên cứu, nghệ sĩ, đạo diễn… ai cũng có thể tìm thấy phần mình trong Kiều. Bởi Truyện Kiều không chỉ kể về số phận một người con gái, mà là câu chuyện về con người Việt Nam: chịu đựng, nhân hậu, kiên cường và luôn tin vào điều thiện. Và như học giả Phạm Quỳnh từng khẳng định hơn một thế kỷ trước: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn.” Câu nói ấy đến nay vẫn như một lời thề văn hóa, khẳng định sức sống của tiếng Việt, của hồn dân tộc được kết tinh trong từng vần thơ Kiều.
Hơn hai trăm năm trôi qua nhưng mỗi lần mở lại Kiều, ta vẫn thấy lòng mình rung động. Những câu thơ tưởng đã cũ, vẫn soi chiếu được tâm thế con người hôm nay. Từ Tiên Điền, truyện Kiều đã bước ra thế giới, và trở lại trong tâm thức người Việt bằng một vị thế rất riêng – di sản của tâm hồn, ký ức của dân tộc.