Bạt Quận công Dương Trí Trạch quê ở làng Yên Huy, xã Bạt Trạch, huyện Thiên Lộc, nay thuộc xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc. Ông sinh năm Bính Tuất (1586), dưới thời vua Lê Thế Tông. Thuở nhỏ, ông là người thông minh học giỏi nhưng đi thi chỉ đỗ Tú tài, rồi không đi thi nữa. Khi có việc làng, nhiều người hạch sách không cho ngồi cùng chiếu trên, rồi lại có người khích bác nên đến lúc gần 30 tuổi, ông mới quyết tâm học tập để theo nghiệp khoa cử. Tại khoa thi năm Kỷ Mùi (1616), niên hiệu Hoàng Định năm thứ 20, đời vua Lê Kính Tông, ông dự thi Đình, đỗ Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Sau khi đỗ đạt làm quan, chỉ một thời gian ngắn, năm Canh Ngọ (1630), Dương Trí Trạch được vua Lê Thần Tông tin cậy cử làm Chánh sứ sang nhà Minh: “Mùa đông, tháng 11, sai Chánh sứ là Trần Hữu Lễ và Dương Trí Trạch, Phó sứ là bọn Nguyễn Kinh Tế, Bùi Bỉnh Quân, Nguyễn Nghi, Hoàng Công Phụ chia hai sứ bộ sang tuế cống nhà Minh”[1]. Chuyến đi trong 3 năm đã thu được kết quả tốt đẹp, đoàn sứ bộ đã hoàn thành trọng trách triều đình giao phó. Sau chuyến đi này, ông được thăng chức Bồi Tụng.
Năm Đinh Sửu (1637), Dương Trí Trạch lại được triều đình tín nhiệm lên biên giới giao thiệp với quan nhà Minh. Bằng tài năng và trí tuệ của mình, ông đã khiến người Minh nể phục, tăng cường tình hòa hiếu giữa hai nước.
Năm 1644, Đốc thị Dương Trí Trạch cùng với Thái bảo Tây Quận công Trịnh Tạc đi bình ổn vùng đất Cao Bằng: “Mùa đông tháng 12, sai Thái bảo Tây Quận công Trịnh Tạc cùng với Đốc thị là Dương Trí Trạch, Tán lý Phạm Công Trứ đi dẹp địa phương Cao Bằng, tiến quân đặt phục, chém được một tỳ tướng của giặc, bắt được đảng giặc rồi về”[2]. Nhờ lập được chiến công trong lần đi này, ông được thăng chức Thượng thư Bộ Lễ kiêm Thị độc Viện hàn lâm, tham dự công việc ở Khu mật viện, rồi được phong Dực vận Tán trị công thần, tước Bạt Quận công.
Trên các cương vị được giao, Dương Trí Trạch đều tận tâm dốc sức, hết lòng vì dân vì nước. Ông là người đã hai lần dâng sớ tâu vua, lập mưu đánh giặc, tạo mối hòa hiếu giữa Đàng Ngoài với Đàng Trong.
Tháng 5 năm Canh Tý (1660), Dương Trí Trạch lại cùng với Phạm Công Trứ dâng sớ nói về các thuật trị nước phải dùng cả văn lẫn võ: “Đường lối trí trị là thưởng phạt nghiêm minh theo mệnh ra sức để nên công việc thì tùy theo công lao mà bàn thưởng hoặc người nào dùng dằng nhát sợ hành quân trái luật thì lấy quân luật mà trị tội. Đó là phép thường dùng để khuyên răn rất là nghiêm ngặt. Văn thần thì nên giúp vua thương dân để tô điểm thái bình, nếu biết giữ thanh liêm chăm việc, ngay thẳng để xứng chức vụ thì tùy theo chứng tích mà khen thưởng hoặc người nào thừa hành công việc, cùng là xét hỏi kiện tụng nếu không đỗ lỗi trước mà cứ uốn phép hối lộ để chậm quá kỳ xét xử không đúng, câu kết bè đảng vì ân nghĩa riêng mà nhận lời thỉnh thác làm nhiều nhũng tệ, đến nỗi nát chính hại dân, tội nhẹ thì xử giáng chức, tội nặng thì xử theo quân luật để bỏ hết thói tệ cho nghiêm phép nước”[3].
Thế kỷ XVII, giáo dục và khoa cử Nho học được tôn trọng và đề cao. Tại khoa thi Quý Mùi năm (1643), Dương Trí Trạch được cử làm Giám thí: “Giám thí là Lễ bộ Tả Thị lang kiêm Hàn lâm viện thị giảng, Tham chưởng Hàn Lâm viện sự Dương Trí Trạch”[4].
Dương Trí Trạch cũng là người trực tiếp dâng sớ lên triều đình đề xuất sửa đổi chính sách giáo dục có lợi cho dân: “Tham tụng Dương Trí Trạch, Phạm Công Trứ dâng sớ nói về việc thuê khoán làm trường và cung đốn các thứ cho trường thi Hương, nên đơn giản kiện ước để bớt phí tổn cho dân”[5].
Năm 1653, Trịnh Tráng đã giao cho ông sao lục tên họ những người thi đỗ Chế khoa kể từ năm Giáp Dần (1554) đến năm Giáp Thìn, Khánh Đức thứ 4 (1652) để dựng bia Tiến sĩ tại Văn Miếu Quốc Tử Giám. Tiến sĩ Dương Trí Trạch là người chịu trách nhiệm tập hợp bản danh sách Tiến sĩ các khoa để khắc bia và là người tổng duyệt cho tất cả các bia khắc dựng trong đợt truy lập này: “Các bài ký phân công cho 7 quan chức ở Viện Hàn lâm là Khương Thế Hiển 7 bia, Nguyễn Văn Lễ 4 bia, Trịnh Cao Lệ 4 bia, Nguyễn Đăng Cảo 3 bia, Nguyễn Đăng Minh 3 bia, Lê Đình Lại 3 bia, Nguyễn Đình Chinh 3 bia và Dương Trí Trạch 1 bia, dựng bia ngày 16 tháng 11 năm Quý Tỵ (1653)”[6].
Lịch triều Hiến chương loại chí chép việc này như sau: “Đầu đời Trung hưng [các người đỗ] từ chế khoa năm Thuận Bình Giáp Dần (1554) đến năm Khánh Đức Nhâm Thìn (1652) cộng 25 khoa, chưa có bia đề tên, đến nay ông vâng chỉ khắc tên vào bia đá. Khi làm xong việc long trọng ấy rồi được vào làm Tham tụng phủ chúa, lên Thượng thư bộ Hộ, thêm chức Thiếu bảo”[7].
Với việc được giao nhiệm vụ tập hợp tư liệu, nhuận sắc các bài văn bia, phụ trách việc dựng bia của 25 khoa thi (từ năm 1554 đến năm 1652) chứng tỏ Dương Trí Trạch phải thực sự có tài năng, tâm huyết, làm việc với tinh thần cẩn trọng, trách nhiệm cao. Đây cũng là minh chứng cho những đóng góp to lớn của ông với Văn Miếu Quốc Tử Giám Thăng Long nói riêng, giáo dục khoa cử Nho học nước nhà nói chung.
Vào tháng 3 năm 2010, 82 tấm bia Tiến sĩ tại Văn miếu Quốc Tử Giám Thăng Long đã được công nhận là Di sản tư liệu thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đến ngày 27 tháng 7 năm 2011, 82 bia Tiến sĩ này lại tiếp tục được UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới.
Sau hơn 40 năm phục vụ triều đình, đến tháng 6 năm Tân Sửu (1661), Bạt Quận công Dương Trí Trạch về quê trí sĩ: “Tháng 6, gia phong Hộ bộ Thượng thư kiêm Hàn Lâm viện thị giảng chưởng Hàn Lâm viện sự Thiếu bảo Bạt Quận công Dương Trí Trạch làm Lại bộ Thượng thư Quốc lão Thái bảo, cho về trí sĩ”[8]. Khi ông về, vua Lê đã ban sắc phong: “Hồng nho Thạc đức, nguyên lão đại thần” (Nghĩa là: Núi Hồng sinh ra người có công đức cao, vị đại thần cao tuổi đứng đầu quan triều đình) và tặng ông đôi câu đối ca ngợi như sau:
四 十 年 立 朝 朝 廷 意 重
七 十 歲 致 仕 仕 宦 成 名
“Tứ thập niên lập triều, triều đình ý trọng;
Thất thập tuế trí sĩ, sĩ hoạn thành danh”.
Nghĩa là: Bốn chục năm ở triều, triều đình trọng dụng;
Bảy chục tuổi về hưu, đỗ đạt làm quan đều nổi tiếng.
Ngoài ra ông còn được nhà vua cho khắc một bia vinh quy hồi hương, văn bia do nhà vua viết tặng ghi nhận công lao đóng góp cho triều đình trong những năm ông làm quan. Tấm bia được tạc theo mẫu ở Văn Miếu và soạn lời bia đề năm Thịnh Đức thứ nhất (1653), nhưng đến thời Minh Mạng thì bị biến cố, hư hỏng mòn hết chữ nên hiện nay không đọc được nữa.
Một năm sau khi về quê trí sĩ, tháng 7 năm Nhâm Dần (1662) Bạt Quận công Dương Trí Trạch qua đời, thọ 77 tuổi, mộ ông được đặt trước cánh đồng làng Bạt Trạc quê hương ông. Vị hiệu thờ ông ghi: “Tiên tổ khảo tứ vị khoa Đồng Tiến sĩ xuất thân, Dực vận tán trị công thần, Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, Tham tụng Lại bộ Thượng thư kiêm Hàn lâm viện Thị giảng, Tham Chưởng Hàn Lâm viện sự, Thượng trụ quốc lão Thái bảo, Bạt quận công trí sĩ, tặng Thái tể Dương tướng công, tự Trung Ý, phụng tứ thụy Nha Chính, khâm bao phong Nguy công Đại vương”.
Sự nghiệp quan trường của Tiến sĩ Dương Trí Trạch được sử gia Phan Huy Chú đánh giá: “Ở triều hơn 40 năm trải qua các chức vụ ở viện Khu mật đã lâu, tính thẳng thắn giữ luật phép (của triều đình) không có ai thỉnh thác được, bàn việc gì tuy hơi nghiêm khắc nhưng theo lẽ công bằng giữ điều ngay thẳng bây giờ ai khen cũng là danh thần”[9].
Năm 2021, Đền thờ Dương Trí Trạch được xếp hạng di tích cấp quốc gia. Năm 2024, tỉnh Hà Tĩnh tổ chức khắc bia đề tên các vị đỗ đại khoa nho học của tỉnh tại Văn Miếu Hà Tĩnh, trong đó có tên Tiến sĩ Dương Trí Dụng và Tiến sĩ Dương Trí Trạch.
Ngày nay, nói đến truyền thống giáo dục khoa cử Nho học Hà Tĩnh không thể không nhắc đến các danh nhân tiêu biểu như Dương Trí Dụng, Dương Trí Trạch, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Thiếp, Phan Kính, Vũ Diệm, Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Du, Nguyễn Công Trứ... Chính những con người này đã góp phần rất lớn trong việc tạo dựng, vun đắp nên bản sắc văn hóa đặc sắc của vùng đất Hồng Lĩnh - Lam Giang. Đồng thời họ cũng chính là những người đã đem văn hóa, trí tuệ của người Hồng Lam tỏa đi muôn nơi, đến cả chốn kinh kỳ và hòa cùng dòng chảy của văn hóa nhân loại.
[1]. Đại việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.235.
[2]. Đại việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.243.
[3]. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.258.
[4]. Ngô Đức Thọ, Văn Miếu Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ, Nxb Hà Nội, 2010, tr.301.
[5]. Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.257.
[6]. Ngô Đức Thọ, Văn Miếu Quốc Tử Giám và 82 bia Tiến sĩ, Nxb Hà Nội, 2010, tr.54.
[7]. Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương loại chí, Nxb Trẻ, Hà Nội, 2014, tr.172.
[8]. Đại việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004, tr.263.
[9]. Phan Huy Chú, Lịch triều Hiến chương loại chí, Nxb Trẻ, 2014, 172.