Phong vị quê hương trong thơ Huy Cận

(Baohatinh.vn) - Phong vị quê hương là nguồn mạch góp phần làm nên điệu tâm hồn Huy Cận, nuôi dưỡng và nhuần thắm cho thơ ông. Thời trẻ tuổi chơi vơi trong vũ trụ bao la, hay lúc trung niên lắm nỗi riêng mình và quanh mình, khi về già, thâm trầm trong suy tưởng về cuộc đời, về con người về nhân tình, thế thái trong cõi nhân gian ngổn ngang và sinh động thì Huy Cận vẫn làm được những việc lớn mà ông tự gánh lấy hay đời đã giao cho ông

Trong đội ngũ các nhà thơ đương đại kiệt xuất Việt Nam từng giữ nhiều trọng trách quan trọng trong bộ máy của Đảng và Nhà nước, sau Tố Hữu phải kể đến Huy Cận.

Ông là Bộ trưởng Bộ Canh nông, một trong những vị bộ trưởng đầu tiên của Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau năm 1945. Trong cao trào Cách mạng tháng Tám năm ấy, ông đã cùng ông Trần Huy Liệu và ông Nguyễn Lương Bằng vào Huế để chấp nhận sự thoái vị của vua Bảo Đại.

Những năm 1945-1946, ông là Ủy viên Ban Thanh tra đặc biệt của Chính phủ. Sau này ông làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa, rồi Bộ trưởng đặc trách Văn hóa Thông tin trực thuộc Hội đồng Bộ trưởng, phụ trách các công tác Văn hóa và Văn nghệ.

Từ năm 1984, ông là Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học nghệ thuật Việt Nam. Ngoài ra, ông còn là Đại biểu Quốc hội Việt Nam khóa I, II và VII; Chủ tịch Đại hội Nhà văn Á - Phi, đồng Chủ tịch Đại hội Văn hóa toàn Thế giới; Ủy viên Hội đồng Chấp hành UNESCO; Phó Chủ tịch tổ chức hợp tác văn hóa - kỹ thuật của Cộng đồng nói tiếng Pháp (ACCP) và là thành viên Viện Hàn lâm Thơ Thế giới.

Huy Cận là nhà thơ lớn vĩnh cửu của thi đàn, một nhà văn hóa uyên thâm trên mọi phương diện, mọi lĩnh vực thuộc phạm trù văn hóa, triết học, văn học nghệ thuật, trong cái vẻ ngoài giản dị, mộc mạc, bình dân, tuềnh toàng, thô tháp. Ông mặc áo vải bông, thường là thứ bạc màu, sờn gấu, đi giày vẹt gót cáu đen bụi đất. 86 năm trên đời, làm nhiều việc ở Huế, Hà Nội, đi nhiều nơi trong nước và ngoài nước, giỏi tiếng Pháp, thông thạo Hán - Nôm, thường xuyên giao tiếp với nhiều ngôn ngữ, ông vẫn nói tiếng quê Ân Phú, vẫn giọng điệu dân Xứ Nghệ.

Hàm Bộ trưởng, sếp của trăm người, vẫn giấu trong túi áo, trong cặp tài liệu giả da nhúm lá diếp cá, vài củ khoai lang vỏ đỏ, những đặc sản quê hương ông hằng thích. Còn nhiều nét đặc trưng trong tính cách của nhà thơ lớn Huy Cận và còn bao điều về nỗi buồn siêu hình, mênh mông như vũ trụ trước cuộc đời, kiếp người nhỏ bé, cô đơn trong các tác phẩm Lửa thiêng, Kinh cầu tự, Vũ trụ ca… về những tiếng ca của cuộc sống gần, xa thấm đẫm niềm tin yêu con người trong Những năm sáu mươi, Trời mỗi ngày lại sáng, Đất nở hoa, Chiến trường gần, chiến trường xa, Lời tâm nguyện cùng hai thế kỷ, Cha ông ngàn thuở…

Ở bài viết này chỉ xin được nhận biết cái phong vị quê hương trong một số tác phẩm thơ của ông.

Xã Ân Phú (Vũ Quang) - quê hương nhà thơ

Huy Cận sinh ở xóm Bòng, xã Trại Đầu, tổng Đồng Công, nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang. Trên mảnh đất này, nhìn phía nào cũng gặp màu xanh của cây, của nước, cũng nghe tiếng vọng mơ hồ của gió rừng Trường Sơn. Cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, xa vắng, đìu hiu, các làn điệu dân ca cổ truyền, phong tục tập quán cư dân miền sơn cước chốn “giang sơn tụ khí” ngấm vào Huy Cận từ thuở nhỏ và sống trong tâm hồn ông, neo theo văn chương ông.

Những buồn thương sầu não sâu đậm cái sắc thái hiu hắt, u hoài, vời vợi của sông nước Tam Soa: “Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song/ Thuyền về, nước lại, sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng”; những mênh mông, tê tái của vũ trụ: “Nắng xuống, trời lên sâu chót vót/ Sông dài, trời rộng, bến cô liêu”… cùng hương thơm đặc trưng mùa màng quê kiểng: “Đất thơm hương mùa mới dậy”, cái sắc màu chiều thu: “Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm”; cái mùi gần gũi, quen thuộc của mọi gia đình nông dân: “Chuồng bò bốc ấm mùi phân ủ/ Mùi cỏ còn hăng xen cọng rơm/ Nắng rọi phên thưa chiều rạo rực/ Ngoài vườn luống cải hoa vàng đơm” (…) Mùi đất mùi phân nhuyễn với nhau/ Mùi bùn vừa nạo dưới ao sâu/ Chua chua ráp ráp mùi ngâm mạ/ Nghe nứt mầm xanh mỗi tế bào”.

Huy Cận đã mở cả tâm hồn vận dụng mọi giác quan để cảm nhận một cách tinh tế hình dáng, sắc màu, hương vị và cả những chuyển động vô hình của quê hương. Đến “Nhớ mẹ năm lụt” thì phong vị quê là tâm trạng, là tình cảm chân thành: “Năm ấy lụt to tận mái nhà/ Mẹ con lên chạn - Bố đi xa/ Bốn bề nước réo nghe ghê lạnh/ Tay mẹ trùm con, tựa mẹ gà/ (…) Năm ấy vườn cau long mấy gốc/ Rầy đi một dạo trái cau còi/ Trên đầu tóc mẹ thêm chùm bạc/ Lụt xuống, còn vương mảnh nước soi.

Huy Cận bảo: “Cảm quan về vũ trụ và cảm quan về sự sống và cuộc sống nhuyễn quyện vào làm một. Thơ là cái này, là cái nọ, nhưng chắc chắn thơ cũng là ánh chớp, là sự sáng bừng của cảm quan toàn diện ấy”.

Sau Cách mạng tháng Tám thành công, Huy Cận đã hòa nhập một cách mau lẹ với số phận của đất nước và nhân dân, vui với niềm vui của công dân một đất nước mới giành được độc lập, người dân thực sự được làm chủ vận mệnh của mình. Huy Cận mở rộng tâm hồn đón những đổi thay của cuộc sống mới, với niềm tin, hy vọng mới: “Buổi trưa ấm lại bốn bề tiếp tục/ Con gà mái lại đâu đây cục tác/ Báo với đời thêm một quả trứng to”.

“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp/ Con thuyền xuôi mái nước song song/ Thuyền về, nước lại sầu trăm ngả/ Củi một cành khô lạc mấy dòng”. Ảnh tư liệu

Đây là giai đoạn Huy Cận viết nhiều, viết về những điều mắt thấy tai nghe, chủ yếu là hô hào, ngợi ca cuộc sống mới, con người mới, theo dòng chảy “văn nghệ phải đạo” (Từ dùng của Hoàng Ngọc Hiến). Ông không còn “gọi dậy hồn buồn của Đông Á, khơi dậy cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này” (Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh - Hoài Chân). Những suy tư trước biến đổi cuộc sống, những tiếc nuối, những buồn thương đến đắm đuối trước cõi nhân sinh ngổn ngang, những trăn trở, dằn vặt trước thân phận con người cũng vắng bóng trong thơ ông.

Dẫu vậy, sự sống và cuộc sống quê hương vẫn bám riết trong tâm thức Huy Cận, nét quê vẫn sinh động, vẫn là bản sắc đặc trưng trong thơ Huy Cận. Vùng quê chợ Bộng miền Tây Đức Thọ: “Lá mía xanh nhung quạt vào mái rạ/ Tiếng lao xao như ai ngả nón chào/ Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao/ Giếng trong lẻo, trời xanh in thăm thẳm”. Tiếng gà gáy quen thuộc nơi bờ tre, cồn rơm rạ: “Được mùa giống mới gà no bữa/ Tiếng gáy tròn như lúa nặng bông”.

Với Huy Cận, tiếng gà gáy giữa làng quê, của làng quê là một ám ảnh, một phong vị: “Tiếng gà gáy sáng, nghe nghìn vạn lần vẫn không thấy chán, vẫn dào lòng tin. Tiếng gà gáy gợi cảm về cuộc đời, rất cuộc đời mà cũng rất vũ trụ. Tiếng gà gáy: Âm thanh của một sự yên tâm lớn. Tiếng gà gáy không dài hơn, không vút cao. Nhưng tiếng chắc và tròn, vòm tròn của tiếng gáy phải chăng gợi lên vòm tròn của vũ trụ? Tiếng gà gáy bình tĩnh, tuần tự, độ lượng giữa đồng quê bên ruộng lúa, bờ tre”. (Bàn về thơ; hoinhavan.vn)

Không chỉ tiếng gà, với cảm hứng không gian rộng mở mà trở thành hình tượng nghệ thuật, đến phong vị quả cà, nước chè xanh, củ khoai, quả cam… trong đời sống thường nhật cũng lặn vào suy tư, thấm đẫm trong thao thức của Huy Cận làm nên nét đặc trưng cho thơ ông: “Ai ơi cà xứ Nghệ/ Càng mặn lại càng giòn/ Nước chè xanh xứ Nghệ/ Càng chát lại càng ngon/ Khoai lang vàng xứ Nghệ/ Càng nhai kỹ càng bùi/ Cam Xã Đoài xứ Nghệ/ Càng chín lại càng tươi…”.

Và cái lò rèn của bác thợ rèn ở làng quê trong tâm thức ông: “Bể lò rèn làng tôi thuở nhỏ/ Tôi nhìn hoài, không chán, không về/ Sắt đập sắt, nguội rồi, lại đỏ/ Cái lò cừ thôn xóm sớm khuya/ Bác thợ rèn - Ông thần phép lạ/ Ngực để trần hồng nâu ánh lửa/ Bác cho tôi đốm lửa ban sơ/ Tôi luyện rèn năm tháng thành thơ”.

Phong vị quê hương là nguồn mạch góp phần làm nên điệu tâm hồn Huy Cận, nuôi dưỡng và nhuần thắm cho thơ ông. Thời trẻ tuổi chơi vơi trong vũ trụ bao la, hay lúc trung niên lắm nỗi riêng mình và quanh mình, khi về già, thâm trầm trong suy tưởng về cuộc đời, về con người về nhân tình, thế thái trong cõi nhân gian ngổn ngang và sinh động thì Huy Cận vẫn làm được những việc lớn mà ông tự gánh lấy hay đời đã giao cho ông, bởi ông:

“Sinh ra giữa miền sơn cước

Có núi làm xương cốt tháng ngày

Đất bãi tươi làm da thịt mát

Sóng sông như những cánh buồm bay”

Giờ đây, ông đang ở nơi đâu trong vũ trụ bao la và huyền bí này? Tôi tự hỏi và ngay đấy tôi thấy ông đang đi trên con đường làng đầy lá rụng, trước những ngôi nhà lợp tranh tro không có cửa, hồn hậu hương vị của trời đất, hoa lá… nơi ông đã từng đi, từng ngắm nhìn, từng lắng nghe, từng khắc khoải nhớ thương. Tôi chợt nghe tiếng ông vọng tới:

“Rồi một ngày kia giã cõi này

Xin cho gieo hết hạt trong tay”.

Chủ đề Đất và người Hà Tĩnh

Đọc thêm

Tin mới Emagazine Truyền hình Báo nói