Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác với hai chữ “lợi danh”

(Baohatinh.vn) - Cùng với vấn đề về y đức, y đạo, y lý, y thuật, dưỡng sinh… Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác còn đề cập nhiều đến hai chữ “lợi danh” trong các tác phẩm của mình, đặc biệt là trong Thượng Kinh ký sự.

Thượng Kinh ký sự là tác phẩm được Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác viết vào năm 1782, nội dung ghi chép lại những sự việc diễn ra trong chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh) lên Kinh đô chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán và chúa Trịnh Sâm. Trong tác phẩm này, Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác đã ký chép rất chân thực, sinh động bức tranh xã hội đương thời, từ cuộc sống của giới thượng lưu đến tầng lớp bình dân, từ trong nhà ra ngoài ngõ, từ con người đến cảnh sắc thiên nhiên, từ sinh hoạt đến trình độ của đội ngũ thầy thuốc cung đình… Qua Thượng Kinh ký sự cho thấy ngòi bút của Lê Hữu Trác tuy nhẹ nhàng, dễ gần, không phê phán, trung thành với hiện thực nhưng lại vô cùng tinh tế, sâu sắc.

z6008978018028-3fae36a76a682953f84dd5c0d155696c.jpg
Tác phẩm “Thượng kinh ký sự” của Lê Hữu Trác do Phan Ngọc dịch (NXB Hà Nội, 2020). (Ảnh: Internet).

Ngoài việc ký chép lại bức tranh xã hội đương thời, Thượng Kinh ký sự cũng thể hiện rất rõ quan điểm của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác về vấn đề “lợi danh”, “danh lợi”, “công danh”… Chỉ với một thiên ký sự không dài nhưng có tới 10 lần tác giả sử dụng từ “lợi danh”, “danh lợi”, cùng với đó là gần chục từ có nghĩa tương đồng như “công danh”, “cái lợi”, “không tham”… Có lẽ, trong văn học trung đại Việt Nam, ít có một tác phẩm nào đề cập nhiều đến vấn đề “lợi danh” như trong Thượng Kinh ký sự.

Ngay từ những trang đầu của tác phẩm, tác giả đã viết: “Mình thuở trẻ mài gươm, đọc sách. Mười lăm năm phiêu bạt giang hồ, không có cái gì là sở đắc. Mình đã xem công danh là vật bỏ, về núi Hương Sơn dựng lều, nuôi mẹ, đọc sách, mong tiêu dao vui thú trong cái vườn đạo lý của Hoàng Đế, Kỳ Bá, lấy việc giữ thân mình, cứu giúp người cho là đắc sách lắm. Nay không ngờ lại bị cái hư danh làm lụy đến nông nỗi này”[1].

Dọc hành trình đi từ Hương Sơn lên Kinh đô, mỗi khi dừng chân nghỉ ngơi hay qua các vùng núi non kỳ thú, tác giả đều ghi lại những cảm xúc của mình, đồng thời cũng không quên nêu lại cái vòng luẩn quẩn của lợi danh. Khi đi qua đò Cấm (vùng Cầu Cấm - Nghệ An ngày nay), ông bộc bạch: “Thầm nghĩ đã ba mươi năm nay, mình xem cái trò danh lợi như ngọn nước chảy xuôi; chỉ lo vui chơi nơi rừng, suối, tự cho thế là đắc sách! Ai ngờ lòng mình đã không màng danh lợi, mà các thân lại mắc vào chốn lợi danh…”[2].

Đến khi vào Trịnh phủ, xem và biết bệnh của Thế tử đã nặng, rốn đã lồi, chân tay gầy gò, phủ tặng yếu, nguyên khí hao mòn… Ông rất phân vân: “Bệnh thế này không bổ thì không được. Nhưng sợ mình không ở lâu, nếu mình làm có kết quả ngay thì sẽ bị danh lợi nó ràng buộc, không làm sao về núi được nữa…”[3].

Trong thời gian ở Kinh đô, biết tiếng của Hải Thượng Lãn Ông, đã có rất nhiều người tìm đến, người thì xin thuốc, người thì đàm đạo thơ văn. Ông bộc bạch: “Tôi ở Kinh chưa được nửa tháng mà từ các quan trong Kinh cho đến lính tráng, những người ngoài đường, nhiều người biết tiếng. Kẻ đến xin đơn, người nhờ bắt mạch, rất ồn ào…”, “Tôi nghĩ bụng: lúc đầu mình cũng chỉ muốn kiếm đủ tiêu thôi. Không ngờ, nay lại được nhiều gấp mấy lần. Nhưng lần này phú, quý mình còn chẳng thiết tha nữa là cái lợi…”[4].

Cũng vì coi nhẹ lợi danh, bổng lộc, lại xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa bảng, nên ông luôn dặn lòng: “Nhà ta mấy đời khoa giáp, theo lời dạy bảo của cha ông, lấy việc xu phụ nơi quyền quý làm xấu hổ…”[5]. Với Lê Hữu Trác, ông luôn sợ mình mắc vào vòng danh lợi, do vậy nên ông luôn tìm cách tránh xa mọi cám dỗ, ông sợ người đời chê cười: “Bấm đốt tay tính lại, đã ba mươi năm nay, mình tưởng đâu không sa vào cái vòng danh lợi, thế mà nay lại đến nông nỗi này chẳng khác như một người tù”[6], “thực mình không nghĩ gì đến danh lợi, thế mà cứ mắc mãi vào trong cái vòng cương tỏa, chỉ tổ để cho bạn bè chê cười..”[7].

Đặc biệt, không những do chính mình nói ra mà ngay cả đến người đương thời cũng nhận xét, đánh giá về Hải Thượng Lãn Ông rất khác: “Ta không ngờ ông ta lại vô tâm đối với công danh như thế”[8], “Người đời lấy việc được làm quan làm vui, ông này lại lấy việc từ quan làm may, thật là khác người”[9]. Hầu hết mọi đánh giá đều thể hiện sự kính trọng, đề cao, coi ông là bậc đại tài, “Thánh thượng xem thì khen hiểu sâu y lý…”.

bqbht_br_dji-0834.jpg
Quê mẹ Tình Diệm là nơi Hải Thượng Lãn Ông "ẩn thân nơi rừng suối, chẳng đoái hoài gì đến lợi danh".

Sau hơn một năm “miễn cưỡng” lên Kinh đô chữa bệnh, chứng kiến cuộc sống của vương tôn thế tử, những buồn vui nơi kinh kỳ, Lê Hữu Trác tự đúc kết: “Mình ẩn thân nơi rừng suối, chẳng đoái hoài gì đến lợi danh. Bổng chốc bị triệu, phải chống gậy lên Kinh ngót một năm trời. Xin xỏ năm lần bảy lượt, mới được buông tha. Vạn nhất mình không kiên quyết, mang lấy một chức quan thì bây giờ danh lợi đã chẳng thành, mà cái thân lại bị nhục, hối thì đã muộn. May sao, lời thề núi cũ không quên, tuy thân mắc vào vòng danh lợi, nhưng vẫn không bị lợi danh mê hoặc…”[10].

Và cũng vì không bị lợi danh mê hoặc nên ông có phần hài lòng với những việc mình đã làm, chung quy lại là cũng bởi ông không tham: “Ra đi thung dung, trở về ngất ngưởng. Lại về núi cũ, lại nằm yên trên đá, lại ngủ dưới hoa. Đang khi mơ màng lại nghe đến việc xảy ra, giật mình bừng tỉnh. Rồi nghĩ bụng: Mình không đến nỗi bị thiên hạ chê cười, chỉ nhờ “không tham” đó thôi”[11]. Kết thúc Thượng kinh ký sự, Hải Thượng Lãn Ông thổ lộ: “Nhân khi nhàn rỗi, uống rượu, gảy đàn, chép lại đầu đuôi việc cũ để ghi nhớ lại. Khiến con cháu ở đời biết tùy duyên, thủ phận, biết tri túc tri chủ, lấy việc “không tham” làm vinh, xem đó làm gương”[12].

Đọc Thượng Kinh ký sự cho thấy sự giống nhau khá kỳ lạ giữa Lê Hữu Trác và La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp. Cả hai ông đều thuộc vào hàng kiệt xuất lúc bấy giờ, sống cùng thời, đều thức thời, cùng lựa chọn vùng núi Hương Sơn - Thiên Nhẫn để ở ẩn, từ bỏ mọi công danh, bổng lộc triều đình. Nếu như với Lê Hữu Trác thì “người đời lấy việc được làm quan làm vui, ông này lại lấy việc từ quan làm may”, “vô tâm đối với công danh”, thì Nguyễn Thiếp cũng vậy, từ chối bổng lộc, lời mời làm quan của ba triều (Lê mạt, Tây Sơn, Nhà Nguyễn), “Phu tử thì ẩn không ẩn hẳn, ra không ra hẳn. Làm quan thì làm quan trên núi trại, nhận chức thì chỉ nhận chức giáo dục quốc dân. Lúc thấy đạo khó đạt thì thôi, không sợ uy quyền, không tổn danh giá”14].

bqbht_br_img-6675-1.jpg
Với Lê Hữu Trác, cái danh lợi chỉ là thứ phù du, tầm thường, như gió thoảng mây trôi, không đáng để cho người quân tử bận tâm...

Điểm qua một vài điều về “lợi danh” trong tác phẩm Thượng Kinh ký sự để thấy rằng, trước sau, Lê Hữu Trác luôn xem nhẹ công danh, lợi lộc, tránh xa mọi vinh hoa, phú quý, ưa cuộc sống nhàn nhã nơi thôn quê rừng núi, gắn bó với cuộc sống của người dân lao động. Với ông, cái danh lợi chỉ là thứ phù du, tầm thường, như gió thoảng mây trôi, không đáng để cho người quân tử bận tâm. Và cũng có như vậy, ông mới chuyên tâm hành nghề làm thuốc, chữa bệnh cứu người, trở thành một bậc Đại danh y vĩ đại của dân tộc, để người sau mãi mãi tôn vinh ông. Đúng như lời thơ của ông: Chỉ có tiếng thơm đời để mãi/ Giàu sang phú quý cũng phù vân.

[1]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.10.

[2]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.14.

[3]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.35-36.

[4]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.45.

[5]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội,1989, tr.110.

[6]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.45-46.

[7]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.105.

[8]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội,1989, tr.40.

[9]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.42.

[10]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.143.

[11]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.143.

[12]. Lê Hữu Trác, Thượng Kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr.143.

[13]. Hoàng Xuân Hãn, La Sơn phu tử, (Tái bản), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2016, tr.263.

Chủ đề 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Đọc thêm

Bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng NTM ở Hà Tĩnh

Bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng NTM ở Hà Tĩnh

“Quả ngọt” hôm nay trên hành trình xây dựng tỉnh đạt chuẩn NTM ở Hà Tĩnh được kết tinh từ “ý Đảng, lòng dân”, sự chung tay, góp sức của cả hệ thống chính trị, cộng đồng doanh nghiệp và Nhân dân.
Bên bến Tam Soa

Bên bến Tam Soa

Về bến Tam Soa, xã Đức Thọ, vào những ngày tháng 9 mùa thu, du khách sẽ có một trải nghiệm ý nghĩa vì đó không chỉ là chuyến đi mà còn là hành trình trở về nguồn cội, với những giá trị giản dị, thiêng liêng.
"Nhịp cầu" nối lịch sử và hiện tại

"Nhịp cầu" nối lịch sử và hiện tại

Thuyết minh viên tại các khu di tích lịch sử, văn hóa là nhịp cầu nối giữa lịch sử và hiện tại, góp phần khơi dậy tình yêu quê hương, đất nước và thêm trân trọng hòa bình.
Nhạc trưởng của những "bản hòa tấu" văn hóa quê hương

Nhạc trưởng của những "bản hòa tấu" văn hóa quê hương

Trong những năm gần đây, Nhà hát Nghệ thuật truyền thống (NTTT) Hà Tĩnh được đông đảo khán giả trong và ngoài tỉnh ghi nhận bởi các chương trình nghệ thuật để lại nhiều dấu ấn. Góp phần làm nên những thành công ấy, có sự đóng góp lớn của nhạc sỹ Trần Quốc Dũng - Trưởng phòng Nghệ thuật biểu diễn.
“Uy tín không nằm ở chức danh mà ở sự thấu hiểu bà con”

“Uy tín không nằm ở chức danh mà ở sự thấu hiểu bà con”

Đó là chia sẻ đầy tâm huyết của bà Trần Thị Yên, một tấm gương về sự cống hiến thầm lặng. Với vai trò Bí thư Chi bộ tổ dân phố 17 (phường Hà Huy Tập, Hà Tĩnh), bà đã chứng minh rằng, uy tín của người lãnh đạo không nằm ở chức danh, mà ở sự thấu hiểu và gắn bó với bà con.
Rằm tháng Bảy trong tâm thức người Hà Tĩnh

Rằm tháng Bảy trong tâm thức người Hà Tĩnh

Tại nhiều làng quê Hà Tĩnh, rằm tháng Bảy không chỉ là một ngày lễ trọng kế tục từ văn hóa truyền thống ngàn đời của ông cha, mà còn là dịp mỗi người trở về với nguồn cội, sum họp anh em, họ hàng.
80 năm Tết Độc lập - Ký ức và khát vọng

80 năm Tết Độc lập - Ký ức và khát vọng

80 năm đã đi qua kể từ mùa thu Cách mạng Tháng 8 năm 1945, nhưng với mỗi thế hệ người dân Hà Tĩnh, Tết Độc lập luôn là mạch nguồn thiêng liêng, nuôi dưỡng lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc và khát vọng dựng xây non sông.
Rộn ràng mùa trám đen ở Hà Tĩnh

Rộn ràng mùa trám đen ở Hà Tĩnh

Xã Hương Sơn (Hà Tĩnh) là thủ phủ của cây trám đen. Hiện nay người dân ở đây đang bước vào mùa thu hoạch với niềm vui được mùa.
Chứng nhân của lịch sử

Chứng nhân của lịch sử

“Khi tôi lớn lên đất nước đã có rồi” và những mùa thu cách mạng, những câu chuyện chiến đấu bảo vệ non sông cứ dần hiện lên qua lời bà kể, đặc biệt là qua những di tích lịch sử.
Trao giải Cuộc thi Giọng hát hay các ca khúc về Hà Tĩnh

Trao giải Cuộc thi Giọng hát hay các ca khúc về Hà Tĩnh

Cuộc thi "Giọng hát hay các ca khúc về Hà Tĩnh" đã tạo dựng một sân chơi lành mạnh, quảng bá sâu rộng các ca khúc về Hà Tĩnh, góp phần khởi dậy tình yêu quê hương, đất nước, lan tỏa hình ảnh tỉnh nhà tới bạn bè muôn phương.
Miệt mài “góp nhặt” ký ức ông cha

Miệt mài “góp nhặt” ký ức ông cha

Với 5 bảo vật quốc gia và hàng ngàn hiện vật, cổ vật, tư liệu giá trị về quê hương núi Hồng - sông La đang được lưu giữ là minh chứng cho những nỗ lực của Bảo tàng Hà Tĩnh trong sưu tầm, bảo quản ký ức quê hương.
[QUIZ] Bí thư Tỉnh ủy lâm thời đầu tiên của Hà Tĩnh là ai?

[QUIZ] Bí thư Tỉnh ủy lâm thời đầu tiên của Hà Tĩnh là ai?

Đồng chí Bí thư Tỉnh ủy lâm thời đầu tiên của Hà Tĩnh là người cộng sản kiên trung, có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh cách mạng. Cuộc đời và sự nghiệp của đồng chí là tấm gương sáng ngời, để lại nhiều bài học quý báu cho đội ngũ cán bộ, đảng viên hôm nay và các thế hệ mai sau.