Vài điều về Thượng Kinh ký sự của Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

(Baohatinh.vn) - Trong lịch sử Việt Nam, Lê mạt là một thời kỳ đầy rối ren, phức tạp. Tuy nhiên, thời kỳ này lại sinh ra rất nhiều anh hùng hào kiệt, nhiều văn tài, nhiều nhà khoa học xuất sắc, trong đó có Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác.

Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (còn có tên là Lê Hữu Huân) sinh năm Giáp Thìn (1724), quê ở làng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng Hồng, trấn Hải Dương, nay là xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ (tỉnh Hưng Yên). Thân phụ Lê Hữu Trác là Lê Hữu Mưu (1675 - 1739), đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Dần, niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710) đời Lê Dụ Tông, làm quan đến chức Hữu thị lang Bộ Công, Nhập thị kinh diên, được phong tước Phu đình Bá, sau khi mất được truy tặng hàm Thượng thư. Thân mẫu là bà Bùi Thị Thưởng, con gái Tướng công Bùi Diệm Đăng, quê ở xứ Bàu Thượng, xã Tình Diệm, huyện Hương Sơn, nay là xã Quang Diệm, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh.

Là người có tư chất thông minh nhưng về khoa cử, Lê Hữu Trác chỉ đậu đến Tam trường, rồi sung vào quân đội chúa Trịnh. Năm 1746, lấy cớ anh ruột mất, Lê Hữu Trác rời quân ngũ về quê ngoại Hương Sơn, Hà Tĩnh để phụng dưỡng mẹ già. Tại đây, ông làm nhà cạnh bìa rừng đặt tên hiệu “Hải Thượng Lãn Ông”. Hải Thượng là hai chữ đầu của trấn Hải Dương, phủ Thượng Hồng quê cha và cũng là thôn Bàu Thượng quê mẹ. “Lãn Ông” nghĩa là “ông Già Lười”, ngụ ý lười biếng, chán ghét công danh, tự giải phóng mình khỏi sự ràng buộc của danh lợi và quyền thế, tự do nghiên cứu y học và thực hiện chí hướng mà mình yêu thích. Từ đó, ông dày công nghiên cứu, tìm học những bài thuốc hay trong nhân dân để trị bệnh cứu người, tiếng tăm ngày càng lừng lẫy.

z5930113362544-50805d59a14de4c2f922a83269f63097-3096.jpg
Tác phẩm Thượng Kinh ký sự dịch ra tiếng Pháp, xuất bản năm 1972 tại Pari.

Về tác phẩm Thượng Kinh ký sự, đây là tác phẩm được Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác viết năm Nhâm Dần, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43 (1782). Nội dung tác phẩm thuật lại hành trình từ xứ Nghệ An ra kinh thành Thăng Long để chữa bệnh cho thái tử Trịnh Cán.

Thượng Kinh ký sự được Phan Võ (1889 - 1962), Phó bảng kỳ thi Đình khoa Canh Tuất, năm Duy Tân thứ 4 (1910) dịch, xuất bản lần đầu vào năm 1959. Thượng Kinh ký sự là một tác phẩm ký sự độc đáo, đặc biệt của nền văn học trung đại Việt Nam.

Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên) thì ký là “thể văn tự sự viết về người thật, việc thật, có tính chất thời sự, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất”, còn ký sự là “loại ký ghi lại những diễn biến của cuộc sống xã hội, không hoặc rất ít xen vào những bình luận chủ quan của người viết" [1]. Văn học trung đại Việt Nam có nhiều tác phẩm được viết theo thể ký sự, điển hình như Phụng sứ Yên Đài tổng ca của Nguyễn Huy Oánh (1713 - 1789), Mặc Trai sứ tập của Đinh Nho Hoàn (1671 - 1715), Hoa trình tiêu khiến tiền hậu tập của Nguyễn Đề (1761 - 1805), Sứ hành quan quang hay còn gọi là Bắc sứ thi tập của Trịnh Hoài Đức (1765 - 1825), Bắc hành tạp lục của Nguyễn Du (1766 - 1820)Trong đó, Phụng sứ Yên Đài tổng ca của Nguyễn Huy Oánh có 470 câu thơ lục bát viết bằng chữ Hán, xen kẽ trong đó là 120 bài chữ Hán. Những gì diễn ra trong suốt hành trình đi sứ sang Trung Hoa năm 1766 đều được Nguyễn Huy Oánh ghi lại khá chi tiết, hầu như đến mỗi địa danh ông đều có thơ đề vịnh để bộc lộ cảm xúc của mình. Về điểm này, Thượng Kinh ký sự Phụng sứ Yên Đài tổng ca có nhiều nét khá tương đồng.

Tác phẩm Thượng Kinh ký sự ngoài thuật lại các sự việc diễn ra trên quảng đường từ Nghệ An ra kinh thành Thăng Long cũng như cuộc sống hằng ngày trong phủ chúa Trịnh, xen kẽ trong đó là 35 bài thơ Lê Hữu Trác bộc lộ cảm xúc trước khung cảnh thiên nhiên, trước cuộc sống thực tại, đồng thời cũng là “phương tiện” để ông thể hiện quan điểm sống của mình.

z5930114096161-8d4e40d925c19dcf509caa2979105f95-2188.jpg
Thượng Kinh ký sự là tấm gương phản chiếu trung thực nhất con người Lê Hữu Trác.

Có thể khẳng định, Thượng Kinh ký sự là tấm gương phản chiếu trung thực nhất con người Lê Hữu Trác. Ở Lê Hữu Trác, ông vượt trội cả về đức lẫn tài so với các thầy thuốc giỏi đương thời. Khi vào Kinh, chứng kiến các thầy thuốc được chúa Trịnh triệu vào để chữa bệnh cho chúa và thế tử, Lê Hữu Trác đã phải than rằng: “Khi tôi ở núi: thường tưởng rằng ở Kinh đô có những bậc quốc y, học thuật đầy đủ, tinh diệu thần nhập, tôi vẫn thường than rằng mình không có điều may mắn được gặp. Đến khi lên Kinh, thấy các thầy thuốc trị bệnh không nói phong hỏa, thì nói thấp đàm, còn như nói hư phải bổ thì chỉ nói khí huyết qua loa mà thôi. Còn đến chỗ chân thủy, chân hỏa, đến cái gốc của tính mệnh thì tuyệt nhiên không chú trọng chút nào. Sao mà y đạo lại khó như thế" [2].

Thậm chí, ông còn gắt các thầy thuốc trong cung phủ: “… một năm nay, sức các ông đã kiệt rồi, không còn cách gì để cứu chữa nữa, sao còn tranh, gièm pha, cản trở người khác? Làm thuốc thì phải nghĩ đến việc cứu người chứ! Cái lòng trung của kẻ làm tôi ở trong nghề thuốc ở đâu?" [3]. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ biết, Lê Hữu Trác hơn hẳn những thầy y đương thời, cả về tâm lẫn tầm.

161d4074744t44289l0-5351.jpg
Nhà thờ Lê Hữu Trác tại xã Quang Diệm (huyện Hương Sơn).

Cùng với y đức, về mặt văn chương, nghệ thuật, Lê Hữu Trác cũng xứng đáng xếp vào hàng thượng thừa. Trong Thượng Kinh ký sự có những câu thơ, đoạn văn đặc tả cảnh sắc thiên nhiên rất êm đềm, tươi đẹp, đầy sống động. Văn chương trung đại ít thấy có lối viết như thế.

“Đêm ấy, thuyền đi dưới trăng.

Hai bên bờ vắng ngắt. Chỉ nghe tiếng chó sủa theo.

Một vầng trăng sáng vằng vặc lòng sông. Hai bên bờ, nước lên chờ khách sang sông. Chuông nện chùa xa văng vẳng; sương che cây, cỏ mịt mù. Mấy ngọn đèn chài hiu hắt; một đôi cò trắng đuổi nhau…".

Về thơ, Lê Hữu Trác viết:

“Khách đi, bờ biển hãi hùng,

Cảnh thu muôn dặm trùng trùng mông mênh”.

161d4073908t50293l0-1-1734.jpg
Tượng đài Hải Thượng Lãn Ông tại xã Sơn Trung (Hương Sơn).

Phan Võ, trong lời tựa bản dịch Thượng Kinh ký sự đã viết: “Lời thơ mới mẻ, tứ thơ man mác, ngó thì đạm nhưng ý vị vô cùng. Có cái vẻ đẹp của bóng trăng trên núi, cái thanh khí của gió trên sông. Đọc lên, nhắc người ta nhớ tới Lý Bạch. Phải có một tình yêu thiên nhiên sâu sắc, phải là một tâm hồn chân thật mới có những bài thơ như thế". Bức tranh xã hội, cả thượng lưu và bình dân trong Thượng Kinh ký sự được miêu tả thật sinh động, nhiều ngóc ngách. Ngòi bút của Lê Hữu Trác tuy nhẹ nhàng, không phê phán, trung thành với hiện thực đến mức cao nhất nhưng lại vô cùng tinh tế, sâu sắc. Nguyễn Huệ Chi đã đánh giá: “ông vượt khỏi cái nhìn ý nghĩa phê phán mà chuyển sang một cái nhìn đầy rung cảm - ngòi bút của ông đột nhiên in sâu vào những giá trị trữ tình. Hai mặt hiện thực và trữ tình quyện chặt vào nhau thành một phong cách độc đáo".

Kể từ năm 1959 đến nay, Thượng Kinh ký sự đã được xuất bản rất nhiều lần ở trong nước. Năm 1972, Thượng Kinh ký sự được Nguyễn Trần Huân (1921 - 2001, người Pháp gốc Việt) dịch ra tiếng Pháp và xuất bản tại Paris.

Điểm qua vài điều về tác phẩm Thượng Kinh ký sự để thấy rằng, Hải Thượng Lãn Lãn Ông Lê Hữu Trác không chỉ là một Đại danh y kiệt xuất mà còn là một nhà văn xuất sắc của dân tộc Việt Nam. Ông hoàn toàn xứng đáng để nhân loại ghi nhận, tôn vinh.

[1]. Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên, in lần thứ hai), Trung tâm Từ điển ngôn ngữ, Hà Nội, 1992, tr.518.

[2]. Lê Hữu Trác, Thượng kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr. 85.

[3]. Lê Hữu Trác, Thượng kinh ký sự, Nxb Thông tin, Hà Nội, 1989, tr. 134 - 135.

Chủ đề 300 năm Ngày sinh Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác

Đọc thêm

Thiêng liêng tiếng gọi cội nguồn

Thiêng liêng tiếng gọi cội nguồn

Từ chỗ là hoạt động tín ngưỡng của người dân địa phương, lễ giỗ Quốc Tổ Hùng Vương ở TX Hồng Lĩnh đã trở thành lễ hội được cấp ủy, chính quyền và Nhân dân Hà Tĩnh quan tâm, thu hút đông đảo người dân tham gia.
Đoàn kết một lòng hướng về nguồn cội…

Đoàn kết một lòng hướng về nguồn cội…

Hòa chung lòng thành kính hướng về ngày Giỗ Tổ Hùng Vương, người dân Hà Tĩnh đã cùng nhau gìn giữ, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, khẳng định sự gắn bó bền chặt trong dòng chảy lịch sử dân tộc.
Ngắm khu dân cư kiểu mẫu bên dòng Ngàn Phố

Ngắm khu dân cư kiểu mẫu bên dòng Ngàn Phố

Bên dòng sông Ngàn Phố thơ mộng, người dân thôn Phúc Bằng, xã Sơn Bằng (Hương Sơn, Hà Tĩnh) đang cùng nhau xây dựng cảnh quan xanh sạch đẹp, hướng tới cuộc sống sống ấm no, hạnh phúc.
Tín ngưỡng thờ cá Ông ở Hà Tĩnh

Tín ngưỡng thờ cá Ông ở Hà Tĩnh

Thờ cá Ông (cá Voi) là một tín ngưỡng dân gian có từ lâu đời của cư dân sinh sống ven biển Việt Nam. Nhiều vùng ở Hà Tĩnh, người dân thờ cá Ông như một vị thần biển linh thiêng.
Chat với "thần đồng tiếng Anh" 12 tuổi đạt IELTS 8.0

Chat với "thần đồng tiếng Anh" 12 tuổi đạt IELTS 8.0

Với điểm IELTS 8.0, “thần đồng tiếng Anh” Nguyễn Lê Bảo Chung (lớp 6A7, Trường Albert Einstein Hà Tĩnh) đã trở thành 1 trong những thí sinh nhỏ tuổi nhất đạt số điểm này với kỹ năng Reading đạt tuyệt đối 8.0, Speaking 8.5, Listening 8.5 và Writing 7.0.
Về miền quê nông thôn mới kiểu mẫu Đồng Yên

Về miền quê nông thôn mới kiểu mẫu Đồng Yên

Bằng sự đoàn kết, chung sức chung lòng, Nhân dân thôn Đồng Yên ở xã Xuân Lộc (Can Lộc, Hà Tĩnh) đã cùng nhau xây dựng quê hương thành khu dân cư nông thôn mới kiểu mẫu thanh bình, đáng sống.
Võ Quận công Nguyễn Phi Sài và những di sản để lại

Võ Quận công Nguyễn Phi Sài và những di sản để lại

Nguyễn Phi Sài là một nhân vật lịch sử có nhiều công lao, đóng góp dưới thời Lê Trung Hưng và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều, ngoài trấn. Hiện nay, dòng họ Nguyễn Phi ở xã Thạch Long (Thạch Hà, Hà Tĩnh) vẫn còn lưu giữ nhiều di sản quý mà ông để lại.
Một vùng duyên hải Kỳ Anh

Một vùng duyên hải Kỳ Anh

Bằng thủ pháp nghệ thuật điểm xuyết chấm phá, đấng tạo hóa điểm thêm lên miền duyên hải Kỳ Anh (Hà Tĩnh) những điểm nhấn thẩm mỹ say đắm lòng người...
Du lịch Hà Tĩnh hành trình mới nhiều kỳ vọng

Du lịch Hà Tĩnh hành trình mới nhiều kỳ vọng

Khơi dậy mạnh mẽ tiềm năng, thế mạnh, ngành Du lịch Hà Tĩnh đang triển khai 3 mũi chiến lược là du lịch văn hóa tâm linh, du lịch nông thôn và du lịch biển với những chuyển động mới nhiều hứa hẹn.
Tiên Điền - từ mảnh đất văn hóa đến đô thị văn minh

Tiên Điền - từ mảnh đất văn hóa đến đô thị văn minh

Thị trấn Tiên Điền - vùng đất giàu truyền thống văn hóa, lịch sử đang rạng rỡ trong những kết quả của hành trình xây dựng đô thị văn minh, phát triển xứng tầm là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh).