Cá Ông được gọi bằng những cái tên tôn kính như ông Nam Hải, Đông Hải Đại Vương, ông Cậu, Đức ngư Ông… Theo “Đại Nam nhất thống chí”: “Đức ngư (theo tên thời Tự Đức ban cho), đầu tròn, trên trán có lỗ phun nước sắc đen, nhẵn nhụi không vảy, đuôi chẻ ra như đuôi tôm, tính hiền lành hay cứu người. Đầu đời Minh Mệnh cho tên là Nhân ngư, đầu đời Tự Đức cho đổi tên như hiện nay”(1).
Nhà nghiên cứu Thái Kim Đỉnh trong Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh mô tả: “Thờ cá Ông là tục cổ của các làng ven biển nước ta. Ở Hà Tĩnh, từ cửa Hội đến Đèo Ngang có rất nhiều miếu thờ ngư thần. Trong miếu (hoặc cạnh miếu) có mộ Ông Cá, có nơi dùng hàng trăm tiểu sành, có nơi xây hầm mộ để giữ hài cốt, có nơi như ở Hội Thống có đến 3 ngôi miếu thờ Nhân ngư gọi là miếu Cô, miếu Cậu”(2).
Cũng vì hay cứu người và được linh thiêng hóa nên ngư dân không bao giờ ăn thịt cá Voi. Cùng với đó, mỗi khi có cá Voi chết (lụy) dạt vào bờ, người dân sẽ tổ chức chôn cất, mai táng chu đáo. Xác cá Voi được tắm bằng rượu thơm rồi liệm bằng vải đỏ, được chôn cất ở bãi cát gần biển. Sau thời gian 3 năm trở đi, xương cá sẽ được cất bốc, cho vào tiểu sành, đưa vào chôn ở một nghĩa trang của vùng, của làng hoặc đưa vào một ngôi miếu để thờ.
Hiện nay, ở Hà Tĩnh, tục thờ cá Ông diễn ra ở nhiều nơi, thời gian tiến hành các nghi lễ thường từ tháng Giêng đến tháng Tư âm lịch. Tính đến đầu năm 2025, toàn tỉnh có 10 di tích thờ cá Ông được xếp hạng di tích lịch sử - văn hóa (LSVH) cấp tỉnh; 2 lễ hội ghi vào danh mục di sản văn hóa (DSVH) phi vật thể quốc gia. Ngoài ra, còn có hàng chục di tích, lễ hội liên quan đến tín ngưỡng thờ cá Ông trải dài từ Nghi Xuân đến TX Kỳ Anh.
Miếu Ngư Ông, thuộc xã Cẩm Nhượng là một di tích lịch sử văn hóa được xây dựng từ rất sớm. Theo Nhân dân địa phương, từ những ngày đầu có tên đất, tên làng Nhượng Bạn, những người dân làm nghề đi biển mỗi khi ra khơi gặp sóng to bão lớn thường rất hay được cá Voi cứu giúp, lúc thì che chắn sóng dữ, lúc thì nâng thuyền khỏi lật, lúc lại dìu cả người và thuyền vào bờ. Từ đó, ngư dân rất kính trọng và coi cá Voi như là một vị ân nhân cứu tinh giữa biển khơi đầy sóng to bão lớn, họ coi trọng cá Voi và không bao giờ đánh bắt loài cá này. Mỗi khi chuẩn bị ra khơi, họ lại thắp hương cầu khấn để được cá Voi cứu giúp khi gặp nạn hoặc cũng có thể trở thành những người bạn đồng hành giữa biển khơi. Mỗi khi có một cá Ông nào bị chết, trôi dạt vào bờ thì ngư dân lại tổ chức chôn cất tử tế, lập mộ và hương khói chu đáo.
Hiện nay, tại miếu Ngư Ông có một nghĩa trang cá Ông với khoảng hơn 60 ngôi mộ cá đã được xây cất chu đáo. Năm 2012, miếu Ngư Ông được xếp hạng di tích LSVH cấp tỉnh. Năm 2021, lễ hội cầu ngư Nhượng Bạn được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Hay như tại làng Cam Lâm, xã Xuân Liên (Nghi Xuân) cũng có đền Đông Hải với 17 ngôi mộ cá Ông. Tương truyền, vào một buổi sáng, dân làng Cam Lâm thấy trên bãi biển có bộ xương cá Voi trôi dạt vào bờ nên đã tổ chức lễ tang và lập đền thờ, gọi là đền Đông Hải. Năm 2017, đền Đông Hải được xếp hạng di tích LSVH cấp tỉnh. Năm 2024, lễ hội Cầu ngư làng Cam Lâm được ghi vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Lễ hội Cầu ngư Cam Lâm diễn ra vào ngày 14 và 15 tháng Giêng hằng năm. Lễ hội ở đây không dùng hải sản như tôm, cua, cá, mực… để tế thần. Họ cho rằng, tế ngư Ông (cá Ông) mà dùng hải sản là không phù hợp. Điều này được coi là kiêng kỵ. Theo thông lệ, sáng 14 tháng Giêng, diễn ra lễ yết tế ở bờ biển của làng. Tại đây, dân làng sẽ lập đàn cúng linh hồn Đức Đông Hải cự ngư. Chủ lễ đọc cáo yết mời thần Đông Hải cự ngư về dự chính lễ vào ngày 15 tháng Giêng và xin phép cho dân làng mở hội.
Lễ hội Cầu ngư đã trở thành sinh hoạt văn hóa tâm linh độc đáo của người dân làng biển Cam Lâm. Trong những ngày diễn ra lễ hội, người dân dành thời gian về đền Đông Hải để dâng hương cầu mong, gửi gắm những hy vọng về một năm trời yên biển lặng, thuyền bè ra khơi thuận lợi, trở về đầy ắp cá tôm.
Trên địa bàn huyện Nghi Xuân, ngoài đền Đông Hải và lễ hội Cầu ngư làng Cam Lâm, còn có khá nhiều di tích và lễ hội liên quan đến tục thờ cá Ông như tại xã Xuân Hội có đền Cô, đền Cậu; xã Xuân Yên có đền Cá Ông… Đây đều là những di tích đã xếp hạng cấp tỉnh.
Theo người dân xã Xuân Hội cho biết, thì từ những năm 1960-1970, đã có 3 lần cá Voi chết trôi dạt vào bờ biển của vùng này. Lần thứ nhất là một con cá Voi lớn, người dân tiến hành tổ chức tang lễ và lập đền thờ gọi là đền Ông. Lần thứ hai là 2 con cá nhỏ hơn, một đực và một cái, người dân chôn cất và lập đền thờ, gọi là đền Cô, đền Cậu. Hiện nay, tại đền Cô, đền Cậu ở xã Xuân Hội có tổng cộng 26 bộ hài cốt cá Ông được đưa vào tiểu sành, ngoài ra, còn có 4 ngôi mộ chưa được cất bốc và khoảng 20 ngôi mộ đã bị vùi lấp dưới tầng cát sâu.
Hằng năm, các tàu thuyền khi rời cửa biển đều đến đền Cô, đền Cậu dâng hương để cầu mong làm ăn thuận lợi, “trơn bọt, lọt lạch”. Lễ Cầu ngư ở đây tổ chức ở cả trên cạn và trên biển. Sau phần lễ là phần hội với các hoạt động như chèo bơi, thi bơi. Đây là cuộc thi giữa các vạn chài (nhóm cùng nghề): vạn rùng, vạn te, vạn đáy, vạn mành… Trống thúc liên hồi, người xem chật bãi, sau ngày này đi làm nghề mới thanh thản. Năm 2015, đền Cô, đền Cậu được xếp hạng di tích LSVH cấp tỉnh.
Điểm qua một số di tích, lễ hội thờ cá Ông ở Hà Tĩnh nêu trên để thấy rằng, sức sống của tín ngưỡng thờ cá Ông ở Hà Tĩnh rất mạnh mẽ và chắc chắn sẽ trường tồn cùng thời gian. Ngày nay, dù cuộc sống phát triển, phương tiện đánh bắt hải sản được đầu tư hiện đại hơn nhưng niềm tin của người ngư dân về vị thần cá Ông vẫn không thay đổi. Tín ngưỡng thờ cá Ông vẫn được người dân tôn trọng, giữ gìn. Nhiều lễ hội Cầu ngư ở Hà Tĩnh đã thu hút hàng ngàn lượt người tham gia, qua đó cũng góp phần phát triển du lịch, dịch vụ các địa phương.
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam nhất thống chí, Nxb Thuận Hóa, 2006, tr.479-480.
(2) Thái Kim Đỉnh, Văn hóa dân gian Nghệ Tĩnh, Tập 1, Nxb Đại học Vinh, 2015, tr.555.