Gần như năm nào cũng vậy, dịch tả lợn châu Phi luôn là nỗi ám ảnh với người chăn nuôi. Như ở Hà Tĩnh từ đầu năm 2025 đến nay, đã có gần 1.500 con lợn bị nhiễm bệnh chết hoặc là buộc phải tiêu hủy.
Đáng nói, phần lớn ổ dịch xuất hiện tại các hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và rất nhiều trong số đó tái phát trên nền ổ dịch cũ. Nguyên nhân vẫn là do các hộ không tuân thủ quy trình an toàn sinh học. Thậm chí khi lợn ốm còn tìm cách giấu dịch, bán tống bán tháo; lợn chết thì vứt xác trên sông suối, kênh mương thủy lợi… Vụ việc Công an Hà Tĩnh phát hiện xe tải chở 180 con lợn nhiễm dịch tả châu Phi trên đường tiêu thụ đi qua địa bàn vào ngày 28/5 mới đây là một ví dụ.
Chăn nuôi nhỏ lẻ vốn chiếm tỉ trọng khá khiêm tốn trong cơ cấu chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn của các tỉnh, thành hiện nay. Nhưng chăn nuôi nhỏ lẻ lại đang là nỗi đau đầu của các cơ quan quản lý. Những quy kết về sự thiếu ý thức của người nuôi là có căn cứ nhưng để thiết lập ý thức bằng các giải pháp quản lý thì hầu như lại đang bỏ ngỏ.
Cấm chăn nuôi trong đô thị theo luật là một ví dụ. Một lãnh đạo ngành chăn nuôi phân trần: đã mấy lần, HĐND tỉnh dự kiến ban hành nghị quyết về các khu vực cấm chăn nuôi trong nội thành, nội thị, thế nhưng năm lần bảy lượt khảo sát, lấy ý kiến, rốt cục không có một địa phương nào đề xuất ban hành và việc chăn nuôi trong đô thị vẫn cứ diễn ra như là một giải pháp sinh kế.
Được biết, ngay sau khi Luật Chăn nuôi có hiệu lực vào năm 2020, cả nước có 25 tỉnh ban hành nghị quyết về các khu vực cấm chăn nuôi trong nội thành, nội thị, nhưng đến nay, một nửa trong số đó buộc phải điều chỉnh hoặc không thể thực hiện. Sự bất lực này chỉ là một trong những dẫn chứng cho thấy độ vênh giữa các quy định của Luật Chăn nuôi với thực tiễn sản xuất.
Luật Chăn nuôi quy định điều kiện cho từng đối tượng chăn nuôi. Trong đó, chăn nuôi quy mô nhỏ, quy mô nông hộ cũng phải tuân thủ các điều kiện như: chuồng nuôi tách biệt với nơi ở, có biện pháp thu gom phân, nước thải, xác vật nuôi, chất thải chăn nuôi, định kỳ vệ sinh tiêu độc khử trùng chuồng trại, dụng cụ chăn nuôi… Nói tóm lại, chăn nuôi dù trang trại hay nông hộ đều là ngành sản xuất kinh doanh có điều kiện.
Điều kiện được quy định trong luật hay nghị định dĩ nhiên phải ở cấp độ khái quát, chung nhất, thế nên khi áp dụng vào thực tế lại cần các bộ hướng dẫn kỹ thuật cụ thể của ngành chăn nuôi cho từng địa phương. Chẳng hạn, khoảng cách an toàn giữa chuồng trại với nơi ở là bao nhiêu mét, định lượng về phân thải, nước thải thế nào được gọi là đảm bảo tiêu chí, mật độ chăn nuôi cho từng vùng thế nào là phù hợp… Sở dĩ cần các bộ hướng dẫn kỹ thuật cụ thể (hoặc đề án chăn nuôi cho từng xã) là bởi chăn nuôi ở địa bàn miền núi khác miền biển, ở vùng đô thị, ven đô khác vùng nông thôn, vùng có mật độ dân cư dày khác nơi có mật độ dân cư thưa. Thế nhưng, đáng tiếc là hầu như các địa phương hiện mới chỉ quan tâm đến chăn nuôi lớn, chăn nuôi trang trại, còn các hộ nhỏ lẻ thì mặc nhiên tự nuôi theo cách riêng của mỗi nhà.
Một cán bộ Trung tâm Ứng dụng khoa học kỹ thuật và bảo vệ cây trồng vật nuôi thành phố Hà Tĩnh cho biết: mỗi lần xuống cơ sở, anh thực sự băn khoăn vì sự đơn độc, lúng túng của nông dân. Việc họ vứt lợn chết vì dịch ra kênh mương là rất đáng phê phán nhưng ngay cả khi chôn lấp như lâu nay cũng không hẳn đã an toàn. Đơn giản vì hầu hết các địa phương đều không quy hoạch và bố trí quỹ đất dự trữ cho phòng chống dịch bệnh. Như tại xã ven biển Thạch Văn - nơi anh phụ trách - mỗi lần chôn lấp động vật chết vì dịch bệnh lại đưa ra các trảng cát do ở đó không có dân cư. Vấn đề là đất cát thường xói lở nhanh, nguồn nước dễ bị thẩm thấu và cách chôn lấp sơ sài lại vô hình làm dịch bệnh phát tán.
Rồi nữa, quy trình phòng dịch hiện nay cũng đang khá máy móc và mang tính sách vở. Chẳng hạn, khi dịch bệnh xảy ra, ngành chuyên môn và các địa phương chống dịch theo kiểu lập barie chốt chặn, rắc vôi bột khử trùng tại các trục đường chính với niềm tin ngăn chặn tình trạng vận chuyển lợn dịch ra khỏi địa bàn. Thế nhưng, khốn nỗi trên mỗi địa bàn dân cư lại có tới hàng chục nẻo đường và do vậy không một lực lượng nào có thể chốt gác kín kẽ 24/24h trong suốt 21 ngày. Trong khi virus tả lợn châu Phi ngoài việc lây lan qua gia súc mắc bệnh thì còn tiềm ẩn trong thức ăn, phương tiện, đồ dùng chăn nuôi… Giải pháp hiệu quả nhất là chống dịch ngay tại cửa chuồng bằng các biện pháp an toàn sinh học lại gần như chưa có những hướng dẫn cụ thể cộng thêm cơ chế giám sát và mang tính cưỡng chế đối với hộ nuôi.
Nói như vậy để thấy rằng: cách chống dịch hiện đang được làm theo kiểu "bịt hang mối" hơn là xử lý từ bên trong. Vấn đề là ai giúp hộ chăn nuôi nhỏ lẻ phòng bệnh từ bên trong?
Làm thế nào để giúp hộ chăn nuôi nhỏ lẻ phòng bệnh từ bên trong? Câu trả lời là mỗi xã cần phải có một đề án chăn nuôi riêng phù hợp với đặc thù địa bàn trên cơ sở cụ thể hóa Luật Chăn nuôi và các đạo luật liên quan cũng như hướng dẫn của ngành chuyên môn. Đề án phải quy định rõ điều kiện chăn nuôi trên chính địa bàn, quy trình phòng ngừa và xử lý dịch bệnh ngay tại chuồng hộ, các điều kiện được hỗ trợ và xử phạt trong tình huống rủi ro hoặc gây ra rủi ro... Nông dân khi đó mới có căn cứ để áp dụng, chính quyền, cơ quan chuyên môn có căn cứ để giám sát, xử lý, thay vì chạy theo xử lý tình huống, vụ việc như lâu nay.
Chăn nuôi nhỏ lẻ thường lấy công làm lãi. Nếu thắng một vài vụ nông dân có thêm nguồn kinh phí trang trải cuộc sống, nhưng nếu bị dịch cũng không đến nỗi mất trắng. Ngoài ra, khi bị thiệt hại bởi dịch bệnh, nhiều hộ còn được Nhà nước hỗ trợ kinh phí tái đàn và một số chi phí khác. Điều đó không gây quá nhiều áp lực lên từng cá thể chăn nuôi, dễ nảy sinh tâm lý chủ quan, tùy tiện. Thế nhưng, nếu cộng gộp cho cả một nền chăn nuôi thì thiệt hại là rất lớn. Đó là chưa nói tới cách nuôi của các hộ nhỏ lẻ đang là sự dung dưỡng cho đủ loại mầm dịch tiềm tàng, nguy cơ đánh sập cả một nền chăn nuôi lớn bất cứ lúc nào.
Rõ ràng loại bỏ chăn nuôi nhỏ lẻ trong điều kiện sản xuất, đời sống hiện tại là không thể, nhưng hướng dẫn và có cơ chế quản lý, giám sát, thậm chí là cưỡng chế tuân thủ quy định đối với chăn nuôi nhỏ lẻ là điều hoàn toàn có thể.