Bà Hoàng Thị Loan - thân mẫu của Bác Hồ |
Từ nhỏ, bà đã được giáo dục lễ nghi theo phong tục, tập quán của quê hương, lớn lên, bà được cha mình là ông Hoàng Đường bày dạy chữ nghĩa thánh hiền nên sớm biết điều hay, lẽ phải.
Bước vào độ tuổi trăng tròn, bà kết duyên với ông Nguyễn Sinh Sắc - cậu học trò mồ côi được gia đình đưa về nuôi ăn học. Cuộc hôn nhân đó là khởi đầu, là cái nôi ra đời và lớn lên của những người con ưu tú.
Có lẽ do lịch sử, địa lý, không gian văn hóa sinh tồn của vùng quê Xứ Nghệ đã tạo cho con người nơi đây những tố chất riêng biệt, không dễ trộn lẫn, hòa tan, nên người con gái sinh ra trên lưu vực Lam Giang mang trong tâm hồn mình nét đẹp mặn mà, chất phác, chịu thương chịu khó nhưng dạt dào, xanh mát của dòng sông xứ sở.
Nghèo nhưng không hèn là người Xứ Nghệ,
Sông núi liền kề nên tâm thế rất sâu.
Cũng như bao người phụ nữ Việt Nam khác, người Mẹ Làng Sen ấy đã sớm gửi gắm vào những đứa con của mình những mong ước cao đẹp thông qua những lời ru ngọt ngào, sâu lắng, chan chứa tình yêu và giá trị nhân văn:
“Làm trai trả nghĩa sinh thành,
Giang sơn gánh vác xứng danh với đời”.
Hay:
“Làm người đói sạch rách thơm,
Công danh là nợ nước non phải đền”...
Những mong ước bình dị mà cao cả ấy của người mẹ đã thấm đẫm vào tâm hồn trẻ thơ khi còn nằm trên cánh võng và đã góp phần tạo nên tâm hồn rộng mở, tấm lòng nhân ái mênh mông của Bác sau này.
Vì muốn giúp chồng yên tâm lo việc lớn, bà đã cùng chồng và hai người con trai rời quê hương vào Huế để ông dùi mài kinh sử. Một đầu là kinh sách, bút nghiên của chồng, một đầu là tương, cà, mắm, muối..., trên đôi vai gầy, người phụ nữ ấy đã không quản ngại vất vả, gian truân gánh cả tương lai của gia đình trải dài, in dấu trên suốt quãng đường từ Nghệ An vào Huế. Con đường thiên lý ấy quanh quanh, bên núi, bên sông trèo đèo lội suối, qua truông, qua phá... nhưng bà vẫn tin tưởng vào quyết tâm thi cử của chồng.
Chiếc võng và khung cửi dệt vải của bà Hoàng Thị Loan gắn với tuổi thơ Bác Hồ ở quê ngoại Hoàng Trù (Ảnh: Huy Tùng)
Ở Huế, bà chăm chỉ dệt vải, xe tơ. Cuộc sống của gia đình rất đỗi khó khăn, nhưng bà vẫn bền gan, vững chí, không ta thán mà luôn động viên, khích lệ chồng con. Hằng đêm, bà thức cùng chồng để ông có thêm động lực, chuyên tâm học hành. Chồng miệt mài kinh sử, thiếp canh cửi đưa thoi. Con đường học hành thi cử, đỗ đạt của ông có dấu ấn tảo tần khuya sớm, sự hy sinh to lớn của bà.
Thuở lên năm, lên bảy - trước khi đến với trường lớp các con bà đã được bà đã khai tâm bằng vốn hiểu biết của mẹ, đó là những giá trị văn hóa của quê hương, đất nước, là hiện thực cay đắng của thân phận người dân mất nước, nỗi thống khổ của những người nông dân một cổ hai tròng. Vì thế, nên các con của bà sớm nhận biết được giá trị của cuộc sống cũng như những vất vả, thua thiệt, khổ đau, tủi hờn mà thân phận của người dân nô lệ phải chịu.
Sau này, khi được đến lớp, đến trường, lại được cha dạy dỗ, nên việc nhìn nhận, đánh giá thế giới xung quanh của các con bà vượt lên những bạn bè cùng trang lứa.
Du khách đến với Làng Sen quê Bác
Cuộc sống nơi kinh thành dường như quá sức đối với một người phụ nữ thuần phác. Vì lam lũ, vất vả mưu sinh mà đôi vai ngày thêm gầy, tấm thân ngày thêm mỏng, sức lực ngày thêm suy kiệt. Khi hạ sinh người con út, bà không được nghỉ ngơi, sớm trở dậy làm lụng để duy trì cuộc sống nên đã đổ bệnh...
Và rồi..., vào một ngày đông ảm đạm năm Canh Tý - 22 tháng Chạp (tức ngày 10/2/1901), người phụ nữ ấy đã trút hơi thở cuối cùng khi tuổi đời còn rất trẻ. Bà đã nhẹ nhàng ra đi, để lại cho đời, cho người ngổn ngang điều dang dở...
Mẹ mất, em thơ khát sữa rồi cũng qua đời, một mình nơi đất khách, cậu bé Nguyễn Sinh Cung đã phải đón nhận nỗi đau quá lớn khi mới lên 10. Hình ảnh về người mẹ dịu hiền, tảo tần khuya sớm cứ nhòa dần, nhòa dần trong nước mắt.
Ba mươi ba năm tuy ngắn ngủi, nhưng bà đã sống một cuộc đời đầy ý nghĩa và hạnh phúc bên gia đình, đóng góp quan trọng vào thành công của chồng con. Những tư tưởng nhân văn, cao đẹp về vai trò của cá nhân đối với gia đình, cộng đồng, xã hội, dân tộc, nhân loại... đã được khởi nguồn, nuôi dưỡng, vun đắp từ người mẹ vĩ đại ấy.
Sau này, trong quá trình đi tìm đường cứu nước và khi đã là lãnh tụ của dân tộc, Bác Hồ thường nén nỗi đau vào lòng, ít khi thể hiện cảm xúc về người mẹ yêu quý của mình, có chăng là những lúc Bác ngồi một mình lặng lẽ trong căn phòng nhỏ ngắm những bông huệ trắng - thứ hoa trong sáng, thuần khiết có hương thơm nhẹ nhàng, ngọt dịu và là loài hoa được bà con lối xóm mang đến viếng mẹ mình ngày mẹ qua đời. Bởi, ngõ Đông Ba, Thành Nội, Kinh đô Huế ngày xưa là vùng chuyên trồng hoa huệ cho dân quanh vùng thắp hương ngày tết, lễ lạt đầu xuân. Đó có thể là lý do vì sao Bác của chúng ta trân quý loài hoa thanh khiết, ngọt ngào và thường thích có một bình huệ trắng trong phòng mỗi độ tết đến, xuân về.
Hôm nay, trong tiết thanh minh, đất trời ấm áp giao mùa, vạn vật trở mình hồi sinh, hàng ngàn người con đất Việt và bạn bè năm châu hành hương về núi Đại Huệ thắp nén tâm nhang trước mộ một người, mãi mãi ghi nhớ công ơn vĩ đại đã sinh cho đời người anh hùng Hồ Chí Minh.