(Baohatinh.vn) - Ông quê ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một nhân vật nào có được huyền thoại, truyền thuyết về địa lý, phong thủy ảnh hưởng sâu sắc tới người dân, sống mãi với thời gian như ông.
Danh nhân nào quê Hà Tĩnh được người dân suy tôn là Thánh sư địa lý?
Giải thích
Tả Ao là nhân vật nổi tiếng ở nước ta, được người dân suy tôn là Thánh sư địa lý. Ông quê ở phủ Đức Quang, trấn Nghệ An (nay thuộc xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Về năm sinh của ông, các nhà nghiên cứu dự đoán vào khoảng năm Nhâm Tuất (1442), thời Lê Sơ. Cũng có tài liệu cho rằng, ông Tả Ao sống vào đời vua Lê Hy Tông (1676-1705). Ông học rộng tài cao nhưng không ra làm quan mà thích ngao du thiên hạ, giúp muôn dân chọn đất lành, khai cơ lập ấp, xây cất đình chùa, miếu mạo, mồ mả, nhà cửa để xóm làng nhà nhà hòa thuận, phát lộc tài, quốc thái dân an. Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một nhân vật nào có được huyền thoại, truyền thuyết về địa lý, phong thủy ảnh hưởng sâu sắc tới người dân, sống mãi với thời gian, sống mãi trong lòng người như Thánh sư địa lý Tả Ao.
Nguồn gốc tên gọi của ông là gì?
Giải thích
Tên thật của ông Tả Ao đến nay vẫn là một ẩn số. Theo sách “Việt Nam phong tục” và sách “Nam Hải dị nhân” của Phan Kế Bính, tên thật của ông là Nguyễn Đức Huyền. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú thì ghi tên ông là Hoàng Chiêm hay Hoàng Chỉ. Còn trong sách “Nghi Xuân địa chí” của tú tài Lê Văn Diễn viết năm 1842 thì cho biết, ông tên thật là Vũ Đức Huyền. Ông được biết đến nhiều hơn bởi tên gọi Tả Ao bởi ông quê ở làng Tả Ao bên hữu ngạn sông Lam. Tại quê hương ông, những người đạo cao, đức trọng, được Nhân dân tôn quý mới được lấy tên làng, xã nơi họ sinh ra đặt tên cho mình. Giống như trường hợp của Uy Viễn Tướng công Nguyễn Công Trứ - danh nhân sinh ra tại làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân (nay là xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh).
Ai là người đã truyền dạy nghề địa lý, phong thủy cho ông?
Giải thích
Trong dân gian lưu truyền nhiều giai thoại về việc ông Tả Ao học nghề địa lý, phong thủy. Tuy nhiên có một giai thoại được biết đến rộng rãi nhất, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo đó, ông Tả Ao sinh ra trong một gia đình nghèo, cha mất sớm, mẹ lại mắc bệnh mù lòa. Vì muốn tìm cách chữa bệnh cho mẹ, ông theo một khách buôn sang Tàu để lấy thuốc. Thầy thuốc đất Tàu thấy Tả Ao là người có hiếu nên hết lòng dạy nghề lang dược. Khi đó, nơi đây có một thầy địa lý bị mù loà mời thầy lang đến chữa, do già yếu nên ông thầy sai Tả Ao đi chữa thay. Khi được Tả Ao chữa khỏi mù loà, ông thầy địa lý nhìn thấy Tả Ao và nhận ra tố chất thông minh, hiếu học của ông. Để trả ơn chữa bệnh nên thầy địa lý nọ đã truyền hết nghề cho Tả Ao. Không phụ lòng thầy, chỉ sau một thời gian ngắn, Tả Ao đã tinh thông những gì được truyền dạy. Trở về quê nhà, ông chữa lành mắt cho mẹ và làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cho người dân, ít khi sử dụng đến kiến thức địa lý, phong thủy. Chỉ khi nào cần thiết ông mới ra tay xem thế đất giùm mọi người. Tuy vậy, danh tiếng xem địa lý của ông lại nổi hơn nghề thầy thuốc.
Có giai thoại, Thánh sư địa lý Tả Ao giúp người dân làng Hành Thiện (huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) xác định vị trí xây dựng công trình gì để làng phát danh khoa bảng?
Giải thích
Làng Hành Thiện ở xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định vốn có tên là Hành Cung Trang, được Vua Minh Mạng đổi tên vào năm 1823 với ngụ ý rằng ngôi làng luôn nghĩ và làm điều thiện. Nổi tiếng là đất học có nhiều người đỗ đạt, dù trong giai đoạn lịch sử nào thì làng Hành Thiện cũng xuất hiện những người con ưu tú, kiệt xuất, làm rạng danh quê hương, đất nước. Lý giải cho sự vinh hiển khoa bảng liên tục nhiều đời nối tiếp của những thế hệ người con Hành Thiện, dân gian có lưu truyền một giai thoại, được đưa vào cuốn “Chuyện ông Tả Ao” của NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh như sau: Vào thời Lê Sơ, Thánh sư địa lý Tả Ao đi qua phủ Xuân Trường, đến làng Giao Thủy (tên cũ của làng Hành Thiện). Người dân nơi đây tiếp đón ông Tả Ao vô cùng chu đáo, vì vậy khi dân làng ngỏ ý muốn ông xem cho thế đất của làng thì ông đồng ý ngay. Ông Tả Ao rất thích thế đất của làng và cho là rất đẹp, chẳng khác nào con cá chép đang quẫy đuôi, tung mình ra biển. Nhờ vậy, dân làng được thịnh vượng, làm ăn phát đạt, ít bệnh tật, ốm yếu. Thế nhưng, ngài phán hiểm nỗi con cá này không có mắt nên đến giờ làng vẫn không thể phát khoa danh. Dân làng nghe vậy liền khẩn khoản xin ông điểm mắt cá chép. Ông Tả Ao liền tìm đúng vị trí huyệt mạch rồi bảo dân làng đào một cái giếng để làm mắt cá. Nước giếng cần giữ sạch, sau này làng sẽ có nhiều người làm quan. Tính xác thực của câu chuyện trên tuy chỉ là giai thoại nhưng sự đại phát khoa danh của làng Hành Thiện thì không thể bàn cãi. Dù trong giai đoạn lịch sử nào, làng Hành Thiện cũng xuất hiện những con người kiệt xuất, làm rạng danh quê hương, đất nước. Đây là quê hương của Tổng Bí thư Trường Chinh và nhiều danh nhân nổi tiếng khác trong lịch sử.
Đền thờ Thánh sư địa lý Tả Ao ở xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân được trùng tu, phục dựng vào năm nào?
Giải thích
Theo sách “Nghi Xuân - Di tích và danh thắng” (NXB Đại học Vinh, 2021), khi ông Tả Ao qua đời, dân làng Tả Ao tôn ông là Phúc Thần, lập đền thờ ông ngay bên bờ sông Lam. Do ảnh hưởng của thời gian, thiên tai, bão lũ cùng hai cuộc chiến tranh ác liệt, đền thờ ông đã bị phá hủy hoàn toàn. Năm 2017, huyện Nghi Xuân đã đầu tư đúc tượng, xây dựng lại đền thờ ông. Đền thờ Thánh sư địa lý Tả Ao tọa lạc uy nghi ở phía Tây Nam quần thể Di tích Đền Huyện tại xã Xuân Giang. Vào ngày 3/4 âm lịch hằng năm, lễ giỗ Thánh sư địa lý Tả Ao được tổ chức long trọng tại địa phương. Con đường mang tên Tả Ao được thảm nhựa, rộng rãi, rợp bóng cây xanh, chạy từ trung tâm thị trấn Tiên Điền ra đê sông Lam, đến bến Giang Đình. Sử sách ghi lại, tại huyện Nghi Xuân và nhiều huyện lân cận của tỉnh Hà Tĩnh cũng có nhiều giếng nước được ông Tả Ao chỉ vị trí cho mà đào, tuy nhiên một số giếng đã bị vùi lấp, không còn dấu tích. Tại thị trấn Tiên Điền, huyện Nghi Xuân vẫn còn lưu dấu tích giếng Kẻ được ông Tả Ao chọn đất cho để đào vào khoảng thế kỷ XVII. Được tôn tạo lại vào tháng 4/2017. Theo người dân địa phương, dù đã trải qua hàng trăm năm, hạn hán đến mấy, giếng nước không bao giờ cạn mà vẫn luôn trong vắt, ngọt lành.
Ông từng có nhiều năm du học ở Pháp, là con của một vị quan đại thần trong triều đình nhà Nguyễn. Tuy bị bệnh hiểm nghèo nhưng với nghị lực phi thường, ông đã nghiên cứu, sáng tạo nên phương pháp dưỡng sinh nổi tiếng, "đẩy lùi giờ hẹn" với thần chết tới hơn 50 năm.
Ông sinh năm 1845 (Ất Tỵ). Không chỉ là một vị quan giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình, ông còn là một nghệ sĩ lớn giai đoạn thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Ông quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, làm quan dưới thời Vua Lê Hiển Tông nhà Lê Trung Hưng. Khi đi sứ phương Bắc, ông được Vua nhà Thanh phong làm Lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa và tặng áo cẩm bào.
“Tố Tâm” - một trong những tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam, tác phẩm đã đưa nhà văn quê Hà Tĩnh trở thành một trong những người mở đầu cho dòng tiểu thuyết lãng mạn hiện đại của văn học nước nhà.
Ông quê ở làng Cải Lương, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thôn Bắc Kinh, xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà), là người kiến tạo, tổ chức và đặt nền móng vững chắc cho ngành Ngân hàng Việt Nam từ những ngày đầu thành lập.
Danh họa Nguyễn Phan Chánh quê ở phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh. Ông được coi là người đặt nền tảng cho tranh lụa Việt Nam hiện đại. Lần đầu tiên công chúng Pháp biết đến tranh lụa Việt Nam là qua bút pháp của Nguyễn Phan Chánh.
Bà quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh; là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đỗ thủ khoa Tiến sĩ Luật học ở Pháp; được Trung tâm Tiểu sử quốc tế bầu chọn là “Người phụ nữ quốc tế của thiên niên kỷ”…
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Bác Hồ luôn gắn bó với báo chí, coi báo chí là phương tiện quan trọng để thực hiện thành công cuộc cách mạng của Nhân dân ta. Bác cũng chính là người đã sáng lập ra tờ báo đầu tiên của nền báo chí cách mạng Việt Nam.
Ông quê ở xã Sơn Mỹ (nay là xã Tân Mỹ Hà), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có công trực tiếp xây dựng Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam, là cán bộ thông tấn đầu tiên hy sinh trong kháng chiến chống Pháp.
Ông sinh ra trong một gia đình nhà giáo tại xã Song Lộc (nay là xã Kim Song Trường), huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII, được xem là người đặt nền móng cho ngành Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Năm 26 tuổi, ông được bổ nhiệm là Bộ trưởng Canh nông (nay là Bộ NN&PTNT) trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là một trong những nhà thơ lớn, nhà hoạt động văn hóa xuất sắc của Việt Nam thế kỷ XX.
Trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, người anh hùng quê Hà Tĩnh đã chiến đấu kiên cường và dũng cảm lấy thân mình lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa lực của địch, tạo điều kiện cho đơn vị xông lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam.
Ông sinh năm 1912 ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Không một ngày qua trận mạc, nhưng ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy, giao trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Tiến sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam sinh ngày 29/3/1918 tại Trung Lễ (nay là xã Lâm Trung Thủy, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ông là một trong số những nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam thế kỷ XX.
Đại Hội đồng Liên hợp quốc lấy ngày 20/3 hằng năm là Ngày Quốc tế hạnh phúc (International Day of Happiness) nhằm tôn vinh, phát triển và nâng cao giá trị hạnh phúc trên toàn cầu.
Người đoàn viên thanh niên cộng sản này quê ở Việt Xuyên (nay là xã Việt Tiến), huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh nổi tiếng với câu nói: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”.
Vị quý phi này nổi tiếng thông tuệ, lại có dung mạo xinh đẹp. Bà đã soạn thảo 10 kế trị nước, an dân dâng vua Trần Duệ Tông. Sau khi mất, linh cữu quý phi được an táng tại vùng cửa biển TX Kỳ Anh, Hà Tĩnh ngày nay.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791) là một đại danh y - nhà văn lớn - nhà văn hóa xuất sắc của dân tộc. Cuộc đời ông chủ yếu gắn bó vùng đất quê ngoại ở Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh - nơi ông không màng đến công danh phú quý, tập trung nghiên cứu y học.
Tổng Bí thư Trần Phú (quê Tùng Ảnh, Đức Thọ, Hà Tĩnh) là học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh - người dự thảo bản Luận cương Chính trị tháng 10/1930 của Đảng, xác định con đường phát triển của Cách mạng Việt Nam.