Bến Hến - Trường Sơn (Đức Thọ). Ảnh: Sỹ Ngọ |
Làng Hến nằm ngay bên bờ sông La, thuộc xã Trường Sơn với khoảng 200 hộ và hầu như người dân trong làng đều sống bằng nghề làm hến. Ngay từ cái tên xóm, tên làng cũng đã nhắc nhớ người dân nơi đây biết bao vui buồn về một thời gian khó mưu sinh và đi lên từ con hến. Bên cạnh nghề làm hến, người dân còn làm thêm những nghề khác như: nung vôi, đóng thuyền và buôn bán.
Sáng tinh mơ, tấp nập từ trên bến Hến là cảnh kẻ mua, người bán. Nhìn những thúng hến đầy ắp, thơm ngọt đang chuẩn bị theo thuyền bè, quang gánh của các chị, các o ngược xuôi về khắp miền quê, ra tận thị thành, ít ai biết được rằng, đằng sau đó là bao nhọc nhằn, vất vả của người dân làng Hến.
Bác Lê Kim Trọng - Trưởng thôn cho hay, nghề làm hến ở làng này có từ lâu lắm rồi, không ai nhớ rõ; theo gia phả của dòng họ Lê Kim ở xã Trường Sơn thì nghề có từ cách đây trên 300 năm. Mùa xuân là mùa khởi đầu cho một năm dong thuyền xuôi ngược các dòng sông bắt hến của đám trai làng. Đến độ tháng 4, tháng 5 là mùa rộ khai thác hến; mùa đông, những người phu hến lại lui về nghỉ ngơi và tranh thủ khai thác ở những bến sông gần. Hến có hai loại: hến nước ngọt là loại thường có ở các vùng sông La, sông Lam, Ngàn Sâu, Ngàn Phố; hến nước mặn, nước lợ thường có ở vùng chân cầu Bến Thủy xuôi xuống.
Ngày xưa, cả làng đều làm hến theo kiểu thủ công, khai thác bằng thuyền gỗ, dụng cụ cào hến được làm bằng tre, mây. Người dân thường tổ chức theo từng đoàn, hội, giúp đỡ nhau làm ăn, mỗi thuyền chỉ được khoảng 5-7 tạ. Nhiều năm trở lại đây, máy móc và phương tiện hiện đại đã làm cho việc khai thác hến của người dân bớt cực nhọc hơn với thuyền trọng tải trên 24 mã lực, miệng vợt bằng sắt và lưới dù.
Tấp nập thuyền bè chuẩn bị cho chuyến khai thác hến trên sông La |
Vợt cào hến được làm bằng khung sắt có chiều dài 1,2m, cao khoảng 20 cm, được bọc lưới dài khoảng 3m, nhủi có khoan nhiều lỗ. Khi cào, hến sẽ ở lại, cát trôi đi. Công việc đánh bắt hến nhờ đó chủ động hơn, không phụ thuộc vào thiên nhiên. Được mùa, mỗi ngày, một thuyền cào được một tấn giắt sống; có ngày dưới bến tập kết khoảng 70-80 tấn cung cấp cho 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh.
Hến sống được tập kết về bến sông trong làng và được các o, các chị đãi thật sạch. Sau khi đãi, ngâm trong nước từ 8-10 tiếng đồng hồ để hến nhả hết cặn, bẩn. Đến 3h sáng hôm sau, những người làm hến lại tất bật thức dậy để chuẩn bị cho công việc quan trọng là luộc hến. Hến được đổ vào chảo to để đun. Kỹ thuật luộc hến cũng đòi hỏi kinh nghiệm và bí quyết riêng, đun đủ “ba sôi, hai trào” thì dùng đũa khuấy đều cho hến “há miệng”, vớt ra để ráo và chuẩn bị cho công việc đãi lấy ruột. Công đoạn này đòi hỏi sự khéo léo, nhẫn nại của người phụ nữ. Hến thành phẩm được các o, các chị chở đi bán khắp các chợ trong huyện, tỉnh và được thương lái về mua, nhập sang tận Nghệ An.
Các bộ phận của hến hầu như đều được người dân tận dụng hết, ruột dùng nấu canh, xào với nắm lá hẹ xúc bánh đa hay nấu cháo, đổ bánh đúc. Nước hến ngọt mát nấu canh hay uống thay nước sôi. Vỏ bán để trộn làm thức ăn nuôi vịt, gà hoặc được nung làm vôi.
Đời sống của người dân làng Hến nhờ đó không còn cảnh chạy ăn từng bữa, vươn lên thoát nghèo; nhà cửa khang trang hơn, tiện nghi đầy đủ. Nhiều gia đình làm giàu từ con hến như anh Trần Ngọc Quang, Lê Kim Thu, Thái Văn Thường… Con em trong làng được học hành đến nơi đến chốn. Tính từ năm 1990 trở lại đây, làng Hến có hơn 60 người tốt nghiệp đại học và hơn 50 người đang theo học tại các trường đại học, cao đẳng trong cả nước.
Lênh đênh sông nước quanh năm, chỉ đến độ tháng 10 âm lịch, khi con hến hết mùa, những người phu hến mới được nghỉ ngơi bên gia đình và chuẩn bị sum họp tết cổ truyền. Ra giêng, những con thuyền lại tiếp tục lênh đênh để bắt đầu mùa hến mới.