Tám mươi năm bắc cầu qua hai thế kỷ (1945-2025), thời gian chưa dài trong trường kỳ lịch sử của dân tộc, nhưng văn học Hà Tĩnh đã để lại nhiều dấu ấn quan trọng trong dòng chảy văn chương nước nhà, tiếp nối được truyền thống của những thế kỷ trước, xứng danh - một vùng văn hóa lớn của Tổ quốc.
Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá cao nền văn học xứ Nghệ (trong đó có Hà Tĩnh) về cả văn học dân gian lẫn văn học viết, xem đây là một trong 3 vùng văn hóa lớn của đất nước, chỉ sau Thăng Long - Hà Nội và Huế. Điều này khá thuyết phục vì có những lý do khoa học chân xác. Từ thế kỷ XIII đến hết thế kỷ XX, từ buổi sơ khởi đến những thời thịnh vượng của văn học nước nhà, Hà Tĩnh đều có đóng góp đáng kể về mặt tác giả cũng như tác phẩm.

Đầu thế kỷ XX, đặc biệt từ sau Cách mạng Tháng Tám (1945), phong trào yêu nước và cách mạng toàn quốc cũng như ở Hà Tĩnh có chuyển đổi mới, đó là sự đổi mới về ý thức hệ. Từ ý thức hệ phong kiến chuyển sang ý thức hệ tư sản rồi ý thức hệ vô sản. Năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đánh dấu một thời kỳ lịch sử mới của dân tộc, kéo theo một giai đoạn mới của văn học nước nhà. Văn học là tấm gương phản chiếu tâm hồn dân tộc. Văn học Hà Tĩnh qua 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã phản ánh khá sinh động cuộc sống và con người Hà Tĩnh trong gần nửa thế kỷ hào hùng đó. Những năm kháng chiến và kiến quốc, văn học Hà Tĩnh chủ yếu sáng tác theo phương pháp Chủ nghĩa hiện thực Xã hội chủ nghĩa phản ánh cuộc sống và con người địa phương hài hòa trong quỹ đạo văn chương cả nước nhưng vẫn đậm màu sắc riêng của vùng đất Hồng Lam.
Trong chiến tranh, những tác phẩm khắc họa những con người dũng cảm trong chiến đấu, trong sáng, cao thượng trong đạo đức, tế nhị trong tình cảm riêng: “Eo núi phía trước” - Trần Hữu Tòng, “Một khoảng trời” - Nguyễn Sinh, “Mười ngày cho một đời” - Xuân Thiều. Chiến tranh qua đi để lại những di sản không phai mờ, cả tiêu cực lẫn tích cực. Con người trước những đòi hỏi khắt khe và đa dạng đã có sự phân hóa, bậc thang giá trị so với quá khứ đã có nhiều thay đổi. Đó chính là mảnh đất giúp thể tài tự sự phát triển. Nguyễn Quang Thân trong “Người không đi cùng chuyến tàu”, Văn Phan trong “Thời gian qua vườn hồng”, Nguyễn Quốc Trung trong “Mùa hái điều”, Văn Linh trong “Người hành khất”, đề cao những con người cao thượng, dám chịu trách nhiệm, ưa lao động sáng tạo, sẵn sàng đón nhận khó khăn. Cái nhìn nhân bản của các tác giả giúp người đọc nhận chân, tin tưởng vào ánh sáng của cái thiện. Con người sống để yêu thương và tranh đấu.

Song hành cùng văn xuôi, thơ ca cũng thể hiện khá sâu sắc con người Hà Tĩnh trong 2 cuộc kháng chiến với những vẻ đẹp không dễ trộn lẫn. Đó là những em bé vừa đau thương vừa anh dũng, những anh bộ đội hiên ngang, lạc quan, những chú công nhân gan dạ, can trường, những người nông dân trung thực cần cù… Phạm Ngọc Cảnh, nhà thơ quân đội, anh có bài thơ nổi tiếng “Sư đoàn” đã khái quát được sự hình thành và trưởng thành của quân đội ta: “Sẽ có những sư đoàn thép/ Bất kỳ nơi đâu/ Không khuất phục tù đày chém giết”. Yến Thanh với hình ảnh những cô gái Đồng Lộc vượt lên những hy sinh, tô đậm truyền thống những người con anh hùng Hà Tĩnh:
Tiểu đội đã về xếp một hàng ngang
Cúc ơi! Em ở đâu không về tập hợp
Chín bạn đã quây quần đủ mặt:
Nhỏ - Xuân - Hà - Hường - Hợi -
Rạng - Xuân - Xanh
A trưởng Võ Thị Tần điểm danh...
(Cúc ơi)
Đến thời đổi mới, văn học Hà Tĩnh - con đẻ của một miền đất có những nét riêng về thiên nhiên cũng như văn hóa, đã đổ vào dòng chảy văn chương chung cả nước một sự phong phú đa dạng về tâm hồn con người Việt Nam thời đổi mới. Sau những hào sảng ngợi ca chiến thắng, văn học Hà Tĩnh vẽ tiếp bức tranh về quê hương trên đường xây dựng đi lên, vượt bao khó khăn, thử thách bởi nghèo khó, cùng nhiều đe dọa thiên tai, bão lụt. Văn học khá trung thực với đời sống và con người Hà Tĩnh, tiếp tục những vẻ đẹp truyền thống, càng nổi bật hơn với những dũng cảm và sáng tạo trong lao động thời kỳ mới. Viết về biển, về nông thôn mới, về công nghiệp hóa, về quê hương làng nghề văn hóa và du lịch thời mở cửa, những trang văn, thơ nở rộ trên các trang sách báo trong và ngoài tỉnh. Hình ảnh con người Hà Tĩnh cần cù, dũng cảm, giàu nghị lực và sáng tạo được thể hiện trong nhiều tác phẩm.

Phát triển theo thời gian, đi vào quỹ đạo văn học chung, văn học Hà Tĩnh đương đại xét về đề tài không chỉ khuôn vào các mặt đời sống chiến đấu và xây dựng mà mở rộng biên độ trên nhiều phương diện như lịch sử, cách mạng, thế sự, tình yêu… Một dãy dài các tác phẩm tiêu biểu, về đề tài lịch sử, cách mạng, những tiếng nói ngày xưa vọng lại hôm nay. Chúng ta gặp lại hình ảnh người nghĩa sĩ Nguyễn Biểu thời Trần qua “Lửa Ngàn Sâu” (Đức Ban), xúc động trước vẻ đẹp hào hùng của những người anh hùng giao thông trên đoàn tàu không số vận tải vũ khí cho miền Nam qua trường ca “Con đường thức” (Nguyễn Ngọc Phú), biết thêm sự hy sinh cao cả những người thanh niên từ biệt quê hương lập chiến công ở miền Nam thời chống Mỹ qua “Ký ức chiến tranh” (Vương Khả Sơn), thấy được tình đồng đội mặn nồng giữa những người lính thời chiến cũng như thời bình trong “Cánh đồng thời gian” (Bùi Quang Thanh)…
Về thế sự, các tác giả vẽ nên bức tranh quê hương thời hậu chiến bao khó khăn gian khổ không thua kém thời buổi chiến tranh, nếp sống bảo thủ và những tính toán cá nhân cùng với bao hủ tục cản trở con đường đi lên của cuộc sống: “Bước thời gian” (Tùng Bách), “Nơi gửi bóng” (Yến Thanh), “Tiết bụt sinh” (Nguyễn Trung Tuyến)… Dẫu vậy, những gương sáng vẫn nổi rõ, trong khó khăn vẫn dành chỗ cho những thiện căn, những tâm cảm đẹp đẽ: “Dấu thời gian” (Phan Trung Hiếu), 80 bài thơ (Duy Thảo); sống lương thiện gieo nguồn hy vọng cho thế hệ sau: “Viết chờ sen lên” (Trần Nam Phong), “Giờ đã sang thu” (Phan Trọng Tảo), “Không hẹn mùa côm cốm” (Trần Quỳnh Nga), “Lặng yên sau cơn mưa” (Trần Tú Ngọc), “Chuyến tàu mùa thu” (Trần Hải Vân)…
Trong không khí đổi mới, nhiều tác giả cho ra đời nhiều tập thơ về gia đình, về mẹ, về tình yêu với những màu sắc nhân văn đã nhận được nhiều cảm tình độc giả: “Mẹ cười” (Nguyễn Văn Thanh); “Tự khúc”, “Hoa xuyến chi” (Lê Văn Vỵ)…

Cái mới tạo sức sống cho tác phẩm. Về nghệ thuật, các tác giả Hồng Lam đã không ngừng tìm tòi, tự vượt mình, vượt qua những thói quen cũ để tìm đến một lối viết mới hiện đại nhưng giàu bản sắc dân tộc. Văn xuôi Hà Tĩnh nhìn chung đa số theo lối truyền thống, kết cấu theo tuyến sự kiện, theo thời gian tuyến tính. Hình ảnh quá khứ, hiện tại quyện lẫn tô đậm cho nhau cùng một bút pháp.
Về nhân vật, trong một số tác phẩm tuy có pha lẫn các yếu tố hư ảo nhưng nhìn chung vẫn sáng tạo theo bút pháp hiện thực, xây dựng những cá tính bên cạnh tính chung. Nhân vật hành động trong những hoàn cảnh điển hình. Ngôn ngữ có nhiều đổi thay, gần gũi đời sống và sinh động hơn. Một số cây bút trẻ có sự tìm tòi cách tân trong phương thức thể hiện khai thác cả những mảng màu vô thức hư ảo. Thơ trữ tình có những đặc điểm đổi mới, từ xây dựng hình ảnh theo lối tả thực truyền thống, đến kết hợp tính siêu thực, tượng trưng hiện đại. Thể thơ từ đa phần theo cách luật chuyển sang tự do. Ngôn ngữ nhìn chung có nhiều đổi thay, gần gũi đời sống và sinh động hơn. Cú pháp không quá câu nệ như cũ, nhịp điệu tự do, phóng khoáng, từ vựng sử dụng nhiều phương ngữ, khẩu ngữ...
Đội ngũ các nhà văn Hà Tĩnh kết hợp hài hòa các thế hệ: thế hệ các nhà văn chống Mỹ, thế hệ các nhà văn sau ngày thống nhất đất nước bao gồm các nhà văn thời đổi mới. Dẫu số lượng tác giả không đông, tác phẩm hằng năm xuất bản không nhiều, nhưng dòng văn học Hà Tĩnh cũng tạo được một nét riêng, đó là sự gắn bó với một vùng đất sôi động, giàu truyền thống văn học, một kho tàng văn học dân gian gồm nhiều thể loại phong phú như truyện cổ, hò vè, ví giặm, âm hưởng tác động đến văn học viết khá đa dạng. Nhiều tác giả để lại dấu ấn trên văn đàn cả nước như: Xuân Hoài, Đức Ban, Duy Thảo, Nguyễn Ngọc Phú, Phan Trung Hiếu, Tùng Bách, Phan Quốc Bình…; một thế hệ lớp sau cũng khá sung sức như: Trần Nam Phong, Nguyễn Văn Thanh, Lê Văn Vỵ, Quỳnh Như, Nguyễn Trung Tuyến, Trần Hậu Thịnh, Đặng Thanh Quê, Nguyễn Xuân Diệu, Hà Lê, Nguyễn Ngọc Vượng, Đinh Quang Lân, Yến Thanh, Trần Quỳnh Nga, Hạnh Loan, Trần Tú Ngọc, Hồ Minh Thông, Nguyễn Thị Nguyệt, Trần Hải Vân, Phan Thế Dũng Toàn, Tống Phú Sa...
Thời hiện đại, văn học Việt Nam có nhiều thành tựu, không thể không nói đến sự góp mặt của văn học Hà Tĩnh. Văn chương Hà Tĩnh hội tụ vào quỹ đạo văn chương cả nước nhờ biết phát huy thành quả văn chương truyền thống từng có một bề dày trong lịch sử, biết sinh động cách tân, tiếp thu, học tập những thành tựu mới.