(Baohatinh.vn) - Tiến sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam sinh ngày 29/3/1918 tại Trung Lễ (nay là xã Lâm Trung Thủy, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh). Ông là một trong số những nhà khoa học tiêu biểu nhất của Việt Nam thế kỷ XX.
Tiến sĩ Toán học đầu tiên của Việt Nam là ai?
Giải thích
GS.TS Lê Văn Thiêm sinh ngày 29/3/1918 tại làng Trung Lễ, xã Cổ Ngu, phủ Đức Thọ (nay là xã Lâm Trung Thuỷ, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh), trong một gia đình nho học lâu đời. Ông làm luận án tiến sĩ Toán học đầu tiên tại Đại học Göttingen (Đức). Ngày 4/4/1945, ông bảo vệ thành công luận án “Về việc xác định kiểu của một diện Riemann mở đơn liên”, qua đó, trở thành người Việt Nam đầu tiên có học vị tiến sĩ Toán học. Đến năm 1948, TS Lê Văn Thiêm tiếp tục bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khoa học quốc gia về Toán tại Pháp, với đề tài “Về bài toán ngược phân phối giá trị các hàm phân hình”.
Trước khi theo đuổi Toán học, Lê Văn Thiêm từng chuẩn bị vào học ngành gì?
Giải thích
Năm 1930, bố mẹ qua đời, Lê Văn Thiêm (lúc đó 12 tuổi) vào Quy Nhơn, nương tựa người anh cả để học Trường College de Quy Nhơn (nay là Trường Quốc học Quy Nhơn). Theo tư liệu của Đại học Quốc gia Hà Nội, chỉ trong 4 năm, Lê Văn Thiêm đã hoàn thành chương trình 9 năm và đứng đầu danh sách khen thưởng của nhà trường khi tốt nghiệp cao đẳng tiểu học (tương đương với THCS ngày nay). 3 tháng sau, ông thi đỗ tú tài phần 1 (tương đương lớp 11), việc mà người bình thường phải chuẩn bị khẩn trương trong 2 năm. Ngay năm sau, Lê Văn Thiêm lại thi đỗ tú tài toàn phần. Nguyện vọng lúc này của ông là học tiếp Toán học ở bậc đại học. Tuy nhiên, khi đó cả Đông Dương chỉ có một trường đại học tại Hà Nội, chuyên về Y khoa và Luật khoa, chưa đào tạo cử nhân Toán, nên năm 1938, Lê Văn Thiêm đành phải ghi tên theo học lớp Lý - Hoá - Sinh (PCB) để chuẩn bị vào học ngành y. Năm sau (1939), với thành tích đỗ thứ nhì kỳ thi PCB, Lê Văn Thiêm được nhận học bổng sang Pháp du học.
Từ Thụy Sĩ, GS.TS Lê Văn Thiêm về nước theo lời kêu gọi của ai?
Giải thích
Sau khi giành được học vị tiến sĩ tại Pháp, Lê Văn Thiêm được mời làm giáo sư giảng dạy tại Đại học Zurich (Thụy Sĩ). Năm 1949, theo lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, GS.TS Lê Văn Thiêm đã có một quyết định hệ trọng đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời ông và ảnh hưởng sâu sắc đến nhiều thế hệ sinh viên Việt Nam - lòng yêu nước đã thúc giục ông từ bỏ địa vị khoa học không ít người mơ ước ở Zurich để về nước tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu giành độc lập cho dân tộc. Sau khi về nước, GS.TS Lê Văn Thiêm công tác tại Sở Giáo dục Nam Bộ từ ngày 19/12/1949. Thời gian làm việc tại đây, GS.TS Lê Văn Thiêm đã được GS Hoàng Xuân Nhị giới thiệu vào Đảng Cộng sản Việt Nam.
GS.TS Lê Văn Thiêm là hiệu trưởng đầu tiên của trường nào?
Giải thích
Năm 1951, GS.TS Lê Văn Thiêm được điều động từ Nam Bộ ra Việt Bắc, nhận nhiệm vụ mới. Ngày 11/10/1951, Trường Sư phạm Cao cấp được thành lập, chính là Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ngày nay. GS.TS Lê Văn Thiêm trở thành hiệu trưởng đầu tiên của trường. Cũng trong giai đoạn này, GS.TS Lê Văn Thiêm đồng thời là hiệu trưởng đầu tiên của Trường Khoa học cơ bản (một trong những trường tiền thân của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, sau này là Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội). Từ 1954-1956, ông làm Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Khoa học. Giai đoạn 1957-1970, ông được cử giữ chức vụ Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, kiêm Chủ nhiệm khoa Toán. GS Lê Văn Thêm còn là đại biểu Quốc hội khoá II và III (1956 - 1970).
GS.TS Lê Văn Thiêm được nhận Giải thưởng Hồ Chí Minh vào năm nào?
Giải thích
Hội Toán học Việt Nam thành lập năm 1966 và GS.TS Lê Văn Thiêm là chủ tịch đầu tiên của hội này. Năm 1975, ông trở thành Viện trưởng đầu tiên của Viện Toán học Việt Nam. Ông còn là tổng biên tập đầu tiên của 2 tạp chí toán học Việt Nam là “Acta Mathematica Vietnamica” và “Vietnam Journal of Mathematics”. GS.TS Lê Văn Thiêm nghiên cứu nhiều vấn đề ứng dụng như tính toán nước thấm và chế độ dòng chảy cho các đập thủy điện Hòa Bình và thủy điện Vĩnh Sơn ở tỉnh Bình Định; tính toán chất lượng nước cho công trình thủy điện Trị An ở tỉnh Đồng Nai. GS.TS Lê Văn Thiêm mất ngày 3/7/1991 tại TP Hồ Chí Minh, sau khoảng 10 năm công tác tại Phân viện Khoa học Việt Nam tại TP Hồ Chí Minh. Theo tư liệu của Đại học Quốc gia Hà Nội, trong suốt 47 năm (1944-1991), GS.TS Lê Văn Thiêm đã để lại trên 20 công trình khoa học có giá trị, trong đó có công trình là nguồn gốc xuất phát của một số luận án tiến sĩ Toán học của Mỹ hiện nay. Ông có những đóng góp to lớn cho Toán học trên cả 3 phương diện: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và triển khai ứng dụng. Hội Toán học Việt Nam có một giải thưởng mang tên Lê Văn Thiêm, được trao hàng năm cho những giáo viên và học sinh xuất sắc, có nhiều đóng góp cho ngành Toán học nước nhà. Để ghi nhớ những cống hiến to lớn của GS.TS Lê Văn Thiêm về khoa học, giáo dục và xã hội, 5 năm sau ngày ông mất, Nhà nước Việt Nam đã truy tặng ông Giải thưởng Hồ Chí Minh và Huân chương Độc lập hạng Nhất, vinh dự cao quý mà ít nhà khoa học đạt được.
Ông từng có nhiều năm du học ở Pháp, là con của một vị quan đại thần trong triều đình nhà Nguyễn. Tuy bị bệnh hiểm nghèo nhưng với nghị lực phi thường, ông đã nghiên cứu, sáng tạo nên phương pháp dưỡng sinh nổi tiếng, "đẩy lùi giờ hẹn" với thần chết tới hơn 50 năm.
Ông sinh năm 1845 (Ất Tỵ). Không chỉ là một vị quan giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều đình, ông còn là một nghệ sĩ lớn giai đoạn thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
Ông quê huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, làm quan dưới thời Vua Lê Hiển Tông nhà Lê Trung Hưng. Khi đi sứ phương Bắc, ông được Vua nhà Thanh phong làm Lưỡng quốc Đình nguyên Thám hoa và tặng áo cẩm bào.
“Tố Tâm” - một trong những tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên của Việt Nam, tác phẩm đã đưa nhà văn quê Hà Tĩnh trở thành một trong những người mở đầu cho dòng tiểu thuyết lãng mạn hiện đại của văn học nước nhà.
Ông quê ở làng Cải Lương, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh (nay là thôn Bắc Kinh, xã Ích Hậu, huyện Lộc Hà), là người kiến tạo, tổ chức và đặt nền móng vững chắc cho ngành Ngân hàng Việt Nam từ những ngày đầu thành lập.
Danh họa Nguyễn Phan Chánh quê ở phường Tân Giang, TP Hà Tĩnh. Ông được coi là người đặt nền tảng cho tranh lụa Việt Nam hiện đại. Lần đầu tiên công chúng Pháp biết đến tranh lụa Việt Nam là qua bút pháp của Nguyễn Phan Chánh.
Ông quê ở huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh. Trong lịch sử Việt Nam, chưa có một nhân vật nào có được huyền thoại, truyền thuyết về địa lý, phong thủy ảnh hưởng sâu sắc tới người dân, sống mãi với thời gian như ông.
Bà quê ở Đức Thọ, Hà Tĩnh; là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đỗ thủ khoa Tiến sĩ Luật học ở Pháp; được Trung tâm Tiểu sử quốc tế bầu chọn là “Người phụ nữ quốc tế của thiên niên kỷ”…
Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Bác Hồ luôn gắn bó với báo chí, coi báo chí là phương tiện quan trọng để thực hiện thành công cuộc cách mạng của Nhân dân ta. Bác cũng chính là người đã sáng lập ra tờ báo đầu tiên của nền báo chí cách mạng Việt Nam.
Ông quê ở xã Sơn Mỹ (nay là xã Tân Mỹ Hà), huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Ông có công trực tiếp xây dựng Thông tấn xã Việt Nam và Đài Tiếng nói Việt Nam, là cán bộ thông tấn đầu tiên hy sinh trong kháng chiến chống Pháp.
Ông sinh ra trong một gia đình nhà giáo tại xã Song Lộc (nay là xã Kim Song Trường), huyện Can Lộc, Hà Tĩnh. Ông là Ủy viên Bộ Chính trị khóa VIII, được xem là người đặt nền móng cho ngành Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Năm 26 tuổi, ông được bổ nhiệm là Bộ trưởng Canh nông (nay là Bộ NN&PTNT) trong Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là một trong những nhà thơ lớn, nhà hoạt động văn hóa xuất sắc của Việt Nam thế kỷ XX.
Trong trận đánh mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ, người anh hùng quê Hà Tĩnh đã chiến đấu kiên cường và dũng cảm lấy thân mình lấp lỗ châu mai, dập tắt hỏa lực của địch, tạo điều kiện cho đơn vị xông lên tiêu diệt cứ điểm Him Lam.
Ông sinh năm 1912 ở Đức Thọ, Hà Tĩnh. Không một ngày qua trận mạc, nhưng ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh tin cậy, giao trọng trách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đại Hội đồng Liên hợp quốc lấy ngày 20/3 hằng năm là Ngày Quốc tế hạnh phúc (International Day of Happiness) nhằm tôn vinh, phát triển và nâng cao giá trị hạnh phúc trên toàn cầu.
Người đoàn viên thanh niên cộng sản này quê ở Việt Xuyên (nay là xã Việt Tiến), huyện Thạch Hà, Hà Tĩnh. Anh nổi tiếng với câu nói: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể có con đường nào khác”.
Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1724-1791) là một đại danh y - nhà văn lớn - nhà văn hóa xuất sắc của dân tộc. Cuộc đời ông chủ yếu gắn bó vùng đất quê ngoại ở Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh - nơi ông không màng đến công danh phú quý, tập trung nghiên cứu y học.